Hoang mang bảo tồn lễ hội truyền thống

Lễ hội Lảnh Giang 2009 - một lễ hội LÀNG - bỗng chốc trở thành một hiện tượng văn hóa - xã hội nổi trội. Trên 70 bài báo khác nhau viết về lễ hội này và trên 100 website đăng tải những bài viết đó.
15/10/2009 07:27
(TT&VH Cuối tuần) - Lễ hội Lảnh Giang 2009 - một lễ hội LÀNG - bỗng chốc trở thành một hiện tượng văn hóa - xã hội nổi trội. Trên 70 bài báo khác nhau viết về lễ hội này và trên 100 website đăng tải những bài viết đó. Không khí chung trên các mặt báo là tưng bừng, vì lâu lắm rồi chúng ta chưa có được một sự kiện văn hóa nào “xôm” như lễ hội này, tuy nhiên, chỉ sau ba bài báo có tính chất phê phán của ba tên tuổi lớn (GS. TS. Ngô Đức Thịnh, PGS. TS. Nguyễn Văn Huy và PGS. TS. Lê Hồng Lý) trong giới nghiên cứu thì làn sóng truyền thông này dường như đã lặng lại?

Với những ý kiến như vậy (mặc dầu không hẳn đã xác đáng) thì không chỉ những người dân bình thường, những nhà khoa học trẻ, giới sinh viên mà cả những nhà quản lý cũng sẽ dễ bị hoang mang, thậm chí lạc lối. Vì vậy, tôi muốn trao đổi về chủ đề: Bảo tồn di sản (ở đây là lễ hội truyền thống) theo cách nào hay mô hình nào?

Nguy cơ toàn cầu

Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, không chỉ có những nước đang phát triển như chúng ta mới có nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa mà ở những nước phát triển (Âu - Mỹ) người ta cũng luôn phải trăn trở, đối phó với nguy cơ ấy. Chính họ là những người đi đầu trong việc kết hợp giữa nghiên cứu khoa học với hoạch định chính sách văn hóa để làm sao trong cơn lốc phát triển ấy, di sản văn hóa của họ được bảo tồn (bởi ở các nước này, tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh và mạnh hơn chúng ta rất nhiều).

Khách quan mà nói, ở những nước phát triển đó, di sản được bảo tồn và phát huy tác dụng tốt hơn ở ta. Điều này được thể hiện ở chỗ: Di sản văn hóa của họ không chỉ mang lại hiệu quả văn hóa xã hội mà còn cả hiệu quả kinh tế, đặc biệt trong phát triển du lịch. Ở nhiều nước, nhà nước chỉ cần đưa ra chính sách tích cực, không cần phải chi tiền cho hoạt động bảo tồn di sản mà di sản vẫn sống được.



Trình diễn body-art tại Lễ hội Lảnh Giang 2009

Ở ta, trải qua một thời kỳ dài của những hạn chế đối với sự vận hành của di sản, nhiều di sản văn hóa đã bị mất hoặc đứng trước nguy cơ bị mất, tuy nhiên do giới khoa học văn hóa của chúng ta chưa đủ mạnh (chủ yếu các nghiên cứu về di sản là những mô tả dân tộc học, hay văn hóa dân gian về hình thái các di sản, chứ chưa có những nghiên cứu hay những thể nghiệm mô hình bảo tồn di sản như thế nào để nó phát huy tác dụng trong cuộc sống đương đại) để có thể giúp các nhà quản lý đưa ra được những chính sách văn hóa phù hợp và kịp thời. Vì thế, tình hình chung trong việc bảo tồn di sản của chúng ta là mang tính tự phát và nguy cơ nhiều di sản không thể được bảo tồn trong xã hội đương đại nếu không có nguồn kinh phí của nhà nước.

Điều đáng nói ở đây là: Những lý luận được đúc kết, những kinh nghiệm thực tế về bảo tồn di sản của các nước phát triển chưa được chúng ta (các nhà khoa học và các nhà quản lý) học hỏi một cách nghiêm túc, sâu sắc và có hệ thống. Nhiều quan điểm khoa học, nhiều quyết định quản lý trong lĩnh vực này vì thế mà mang tính chất cảm tính và chủ quan, duy ý chí.

Ba mô hình bảo tồn

Tôi thực sự không hiểu tại sao một số học giả trong lĩnh vực di sản ở nước ta lại có những quan điểm bảo thủ đối với bảo tồn di sản đến vậy? Phải chăng họ chưa được cập nhật những tri thức mới về các mô hình bảo tồn di sản? Những tri thức này hiện nay rất phổ biến trong giới nghiên cứu văn hóa, thậm  chí ở Việt Nam đã có hẳn một luận án tiến sĩ trình bày về những vấn đề lý luận này (Bùi Hoài Sơn - Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ từ năm 1945 đến nay - luận án tiến sĩ, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, 2006).

Ashworth, một học giả có uy tín hiện nay- đã tổng kết từ thực tế bảo tồn di sản ở nhiều nước trên thế giới thành ba quan điểm và tương ứng với nó là ba mô hình bảo tồn di sản:

1. Bảo tồn y nguyên: Đây là quan điểm dựa trên quan điểm bảo tồn văn hóa vật thể của các nhà bảo tàng học. Quan điểm này cho rằng, các sản phẩm của quá khứ cần được bảo tồn nguyên dạng như nó vốn có. Quan điểm này phát triển từ năm 1850 và thịnh hành một thời gian dài. Các nhà bảo tàng học nước ta cũng chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi quan điểm này.

Đối với lễ hội truyền thống - một loại hình văn hóa phi vật thể - thì việc xác định đâu là các yếu tố nguyên gốc sẽ gặp phải những khó khăn. Một mặt, những thay đổi lịch sử tác động đến sự biến đổi về chức năng của các lễ hội dẫn đến biến đổi cấu trúc lễ hội, mặt khác, bất cứ một lễ hội nào cũng tự tích hợp những yếu tố văn hóa của thời đại hoặc ngoại lai (dù vô tình hay hữu ý) để thích nghi với từng thời đại.

Điều quan trọng hơn là: bản chất của lễ hội là sự lựa chọn và sáng tạo của từng cộng đồng. Các nhà bảo tồn hãy thử hình dung: Nhiều cộng đồng làng mà lễ hội của họ xưa kia không được đầy đủ lệ bộ, không có quy mô lớn... đã học hỏi những nghi thức, diễn xướng ở những lễ hội khác để làm cho lễ hội làng mình “hoành tráng” hơn, thu hút khách thập phương hơn? Chẳng lẽ điều đó là sai? Là không nguyên gốc và di sản như vậy không có giá trị ư?

2. Bảo tồn trên cơ sở kế thừa: Quan điểm này thừa nhận sự biến đổi của di sản, nhưng lại cực đoan cho rằng mỗi di sản có nhiệm vụ lịch sử ở những không gian và thời gian cụ thể, những mặt tích cực của chúng phải được phát huy cho phù hợp với nhu cầu thời đại, ngược lại những mặt tiêu cực phải bị loại bỏ. Di sản, nhất là di sản văn hóa phi vật thể luôn là một thực thể hữu cơ không thể chia cắt thành những yếu tố tích cực/ tiêu cực; tiến bộ/ lạc hậu; tốt/ xấu... Vì thế, khi chúng bị chia cắt một cách siêu hình thì lập tức bị biến dạng và tiêu vong. Thực tiễn ở Việt Nam đã cho thấy, với quan điểm bảo tồn này, nhiều lễ hội chỉ còn lại phần “hội”, nhiều hình thái văn hóa gắn với tín ngưỡng cổ xưa, nhiều diễn xướng dân gian có giá trị bị coi là dị đoan. Rõ ràng bảo tồn di sản theo quan điểm này sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là nhiều hình thái văn hóa cổ truyền mà dưới con mắt của người đương thời là không phù hợp sẽ bị gỡ bỏ và di sản sẽ không còn toàn vẹn nữa.

3. Bảo tồn - phát triển: Đây là quan điểm đang chiếm vị trí chủ đạo trong giới học thuật cũng như giới quản lý văn hóa ở nhiều nước phát triển trên thế giới. Quan điểm này không bận tâm với việc tranh cãi nên bảo tồn y nguyên như thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ, mà đặt trọng tâm vào việc làm thế nào để di sản sống và phát huy được tác dụng trong đời sống đương đại. Hạt nhân của quan điểm này là khái niệm “tính chân thực”: Nếu như các quan điểm truyền thống cho rằng độ chân thực là cốt lõi của di sản thì ngày nay người ta lại đánh giá thấp vai trò của tính chân thực này: Chân thực hay không không phải là một giá trị khách quan và độ chân thực được đo bằng trải nghiệm.

Một trong những ví dụ tiêu biểu minh họa cho tính chân thực của di sản không quan trọng đối với việc quản lý, khai thác, và phát huy di sản là trường hợp bảo tàng dành cho thám tử Sherlock Holmes ở phố Baker, London và khu rừng ở Nottingham của Robin Hood, hai sản phẩm của trí tưởng tượng của các nhà văn Anh đã trở thành di sản thu hút khách du lịch ở nước này. Dù rằng hai nhân vật Sherlock Homes và Robin Hood không có thật trong lịch sử, nhưng do nhu cầu của xã hội hiện đại, những câu chuyện và kể cả những vật dụng của hai nhân vật trên được hiện thực hóa như ngôi nhà của Sherlock Homes ở phố Baker với các vật dụng của ông như chiếc gậy, cái mũ, những quyển sách... hay khu rừng được cho là nơi từng diễn ra những cảnh cướp của người giàu chia cho người nghèo của Robin Hood (theo Bùi Hoài Sơn). Hoặc tương tự như vậy ở Trung Quốc người ta xây dựng những “Vườn đào kết nghĩa” của ba anh em Lưu - Quan- Trương trong truyện Tam quốc diễn nghĩa ...

Nhiều năm vừa qua, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam đã cùng với các địa phương tiến hành bảo tồn một số lễ hội truyền thống theo quan điểm và mô hình lý thuyết “bảo tồn - phát triển”. Lễ hội Kiếp Bạc 2006, Lễ hội Tịch điền 2009 và Lễ hội Lảnh Giang 2009 là những thể nghiệm khá thành công khi áp dụng mô hình bảo tồn này. Những lễ hội này không chỉ thu hút giới truyền thông quảng bá cho di sản, không chỉ làm tăng lượng khách tham quan du lịch cho di sản (qua đó tăng nguồn thu cho các khu di tích) mà còn là niềm tự hào của địa phương (tỉnh Hưng Yên, tỉnh Hà Nam), của các cộng đồng cư dân sở tại về những nét văn hóa độc đáo mà chỉ ở lễ hội của họ mới có. Đó chính là những cơ sở vững chắc để di sản được bảo tồn trong xã hội đương đại.
 
(*) TS Bùi Quang Thắng (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam) là tác giả kịch bản và đạo diễn Lễ hội Lảnh Giang 2009 gây xôn xao trong dư luận thời gian qua.

      Sau một năm thực hiện, với gần 50 bài báo cùng nhiều phát hiện về giá trị của những di sản văn hóa phi vật thể đang trong tình trạng “báo động” về sự “biến dạng” và “biến mất”, cuộc hội thảo xoay quanh chủ đề: Để di sản “sống” trong đời sống đương đại” (sống thế nào và sống ra sao?) do báo TT&VH cuối tuần, chuyên mục Báo động từ vốn di sản tổ chức đã nhận được nhiều ý kiến tranh luận, đóng góp của những chuyên gia trong lĩnh vực này. Những ý kiến có thể tiếp tục nảy ra tranh luận hoặc mở ra một hướng tư duy mới về việc giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. TT&VH Cuối tuần giới thiệu một số góc nhìn này.


T.S Bùi Quang Thắng (*)

Tin cùng chuyên mục

Để di sản "sống" trong đời sống đương đại

Để di sản "sống" trong đời sống đương đại

LTS: Không phải cứ muốn là được, không phải cứ đầu tư nhiều tiền là xong, để di sản “sống” trong đời sống đương đại là một bài toán tổng thể, cần nhìn nhận dưới góc độ khoa học.

Một loại hình di sản lạ lùng - Cùng người Thái “lên trời, xuống âm phủ"

Một loại hình di sản lạ lùng - Cùng người Thái “lên trời, xuống âm phủ"

Điều lạ lùng là dù lên cõi trời, hay xuống cõi âm, phương tiện để phục vụ cho chuyến đi đơn giản chỉ là những bài hát được “biến tấu” tại chỗ từ kho tàng văn hóa dân gian của người Thái mang đậm yếu tố tâm linh kỳ ảo…

Tương lai nào cho các đào nương trẻ?

Tương lai nào cho các đào nương trẻ?

Tương lai nào cho các đào nương trẻ khi âm nhạc cổ truyền đang mất dần chỗ đứng trong lòng khán giả, nhất là giới trẻ?

Quan họ "cạn" liền anh

Quan họ "cạn" liền anh

Có một thực tế đáng báo động là, khi Bắc Ninh xuất hiện phong trào phục hồi canh hát quan họ cổ, thì một vấn đề bỗng nảy sinh: Hình như Quan họ đang… “cạn” liền anh.

Trò Xuân Phả (Bài 2): Muốn thiêng phải trả về nghè

Trò Xuân Phả (Bài 2): Muốn thiêng phải trả về nghè

Năm điệu múa trong trò Xuân Phả - một đỉnh cao của nghệ thuật múa cung đình và dân gian Việt - gợi liên tưởng tới điệu Cheoyongmu (Múa mặt nạ) của người Hàn Quốc hay một “lễ hội hóa trang” của người phương Tây.

Trò Xuân Phả những điệu múa mặt nạ dị kỳ

Trò Xuân Phả những điệu múa mặt nạ dị kỳ

Có người ví trò Xuân Phả với điệu Cheoyongmu (Múa mặt nạ) của người Hàn Quốc hay như một “lễ hội hóa trang” của người phương Tây nhưng lại mang đậm yếu tố cung đình và dân gian Việt trong từng điệu múa…

Nhân tình nhắm mắt chưa xong...

Nhân tình nhắm mắt chưa xong...

Tôi đến thăm gia đình Điểu Mai - con gái cố nghệ nhân Điểu Kâu, một trong những nghệ nhân nổi tiếng nhất Tây Nguyên (người đã biên soạn, dịch sang tiếng Việt được 75 bộ sử thi M’Nông, ...

Chuyện về ngôi nhà mồ dị kỳ (Bài 2): Hảo hán nơi núi rừng

Chuyện về ngôi nhà mồ dị kỳ (Bài 2): Hảo hán nơi núi rừng

Briu Ngà là người rất giản dị, cởi mở, anh hồ hởi kể cho chúng tôi nghe nguồn gốc của ngôi nhà mồ kỳ dị do chính mình làm ra này...

Tin mới nhất

Sức hút du lịch Việt qua hệ sinh thái số

Sức hút du lịch Việt qua hệ sinh thái số

Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế số phát triển nhanh nhất khu vực ASEAN. Với hơn 78 triệu người dùng internet và tỷ lệ sử dụng mạng xã hội đạt 73,3% dân số, Việt Nam sở hữu môi trường lý tưởng để thúc đẩy hệ sinh thái số và công nghệ du lịch phát triển mạnh mẽ.

Chuyến tàu The first luxury train in Vietnam - Sjourney

Chuyến tàu The first luxury train in Vietnam - Sjourney

Chuyến tàu The first luxury train in Vietnam - Sjourney, chính thức đón đoàn khách nước ngoài đầu tiên vào lúc 16:30 ngày 18/12/2024 tại ga Sài Gòn.

Đà Nẵng đón Giáng sinh – Chào năm mới 2025 với nhiều chương trình du lịch độc đáo

Đà Nẵng đón Giáng sinh – Chào năm mới 2025 với nhiều chương trình du lịch độc đáo

Chào mừng lễ Giáng sinh và năm mới 2025, các đơn vị du lịch, lưu trú, điểm công cộng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đang có nhiều hoạt động, chương trình độc đáo, hấp dẫn thu hút khách du lịch.

Du lịch Huế “cất cánh” bằng thế mạnh di sản văn hóa

Du lịch Huế “cất cánh” bằng thế mạnh di sản văn hóa

Năm 2025 là dấu mốc quan trọng đánh dấu bước ngoặt Thừa Thiên - Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, đem đến nhiều vận hội mới cho địa phương.

Thái Nguyên lần đầu tổ chức Liên hoan ẩm thực các món ăn chế biến từ cây chè

Thái Nguyên lần đầu tổ chức Liên hoan ẩm thực các món ăn chế biến từ cây chè

Ngày 16/12/2024, tại thành phố Thái Nguyên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Hiệp hội Du lịch tỉnh tổ chức Liên hoan Ẩm thực mang chủ đề “Trải nghiệm xứ trà, đậm đà bản sắc”.

Ninh Thuận tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị đồi cát Nam Cương

Ninh Thuận tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị đồi cát Nam Cương

Đồi cát Nam Cương (xã An Hải, huyện Ninh Phước) nằm cách trung tâm thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 7 km về hướng Đông Nam được ví như "tiểu sa mạc Sahara" với cảnh quan và địa hình độc đáo.

Quảng Bình phát triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng

Quảng Bình phát triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng

Tỉnh Quảng Bình có nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú, hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.

Phở và nem “chinh phục” thực khách Italy

Phở và nem “chinh phục” thực khách Italy

Ngày 12/12/2024, Đại sứ quán Việt Nam tại Italy đã phối hợp với Vietnam Airline tổ chức sự kiện “Phở và Nem: Đường đến với ẩm thực Việt Nam - Bay thẳng Việt Nam - Italy từ tháng 7/2025” nhằm quảng bá văn hóa ẩm thực và thúc đẩy du lịch Việt Nam.

Độc đáo khu phố bao cấp của Hà Nội được tái hiện trong "Đêm Trúc Bạch"

Độc đáo khu phố bao cấp của Hà Nội được tái hiện trong "Đêm Trúc Bạch"

Lần đầu tiên tại Hà Nội, một không gian với bối cảnh là một khu phố cổ Hà Nội với các toa tàu điện, các cửa hàng bách hóa… gợi nhớ cho người dân Thủ đô và du khách về ký ức của "thời bao cấp", một trong những thời kỳ đặc biệt của đất nước.

Đêm Trúc Bạch: Điểm đến của một Hà Nội quyến rũ, sâu lắng và đậm chất thơ

Đêm Trúc Bạch: Điểm đến của một Hà Nội quyến rũ, sâu lắng và đậm chất thơ

Đêm Hà Nội với sự lung linh của ánh đèn và hơi thở lịch sử qua từng góc phố, là một mô hình độc đáo, giúp du khách khám phá một Hà Nội rất khác - một Hà Nội quyến rũ, đậm chất thơ và sâu lắng.