Gặp lại các tác giả được đưa vào sách giáo khoa: Bút Ngữ - 'Chẳng mưa từ chín tầng mây…'
(Thethaovanhoa.vn) - Trong tuyển tập Giải nhất văn chương (NXB Hội Nhà văn, 1998) ở trang ghi danh sách những người được giải cuộc “Thi ca dao 1961 tuần báo Văn học” có tên Bút Ngữ. Bài ca dao được giải của Bút Ngữ được tuyển vào sách Tiếng Việt 2 (tập 2, NXB Giáo dục, 1996).
Năm 2007, lịch treo tường in chung giữa NXB Giáo dục và NXB Chính trị Quốc gia, ở tờ lịch 23/3/2007 - ngày Khí tượng Quốc tế in 2 câu kết của bài được giải: “Chẳng mưa từ chín tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người”.
Từ 1953, ở tuổi ngoài 20, Bút Ngữ đã là cây bút tác chiến nhanh của làng văn nghệ Thái Bình, ông sáng tác ca dao, diễn ca, tấu, viết lời cho các điệu hát xẩm, hát chèo… rồi tự tay in bột gửi về các huyện, khích lệ quân dân tham gia cuộc kháng chiến 9 năm. Vậy mà, năm 2019 ở tuổi bát tuần có lẻ, ông còn trình làng tập thơ Thiếu nữ lên chùa! Và năm nay, lão ông 90 xuân Bút Ngữ, vẫn sáng tác, vẫn nói bằng lời ngòi bút, ông đang chờ ngày ra mắt tiểu thuyết mới.
Mượn tiết điệu xưa làm bài đồng dao mới
Bài ca dao vào giáo khoa, lên lịch là bài Làm mưa:
“Bước lên đồng trên/ Thấy con sông mới/ Bước xuống đồng dưới/ Thấy con kênh đào/ Bước ra đồng sau/ Thấy máy bơm nước/ Bước ra đồng trước/ Thấy guồng đang quay/ Chẳng mưa từ chín tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người”.
Học trò lớp 2 ngày ấy, nhất là những em ở vùng nông thôn đọc bài này, hào hứng lắm vì bài học mà giống như bài hát của trò chơi Xúc sắc xúc sẻ: “Bước lên giường cao/ Thấy đôi rồng ấp/ Bước xuống giường thấp/ Thấy đôi rồng chầu/ Bước ra đằng sau/ Thấy nhà ngói lợp/ Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm…”.
Bút Ngữ đã mượn những chữ chủ âm, mượn tiết điệu xưa để làm bài đồng dao mới. Cái mới từ những người nông dân muốn thay trời làm mưa! Mong muốn của những nhân vật thơ ca đang “bước” thoăn thoắt kia có vẻ “duy ý chí”? Nhưng biết làm sao, không “duy” thì đói vì hạn hán sẽ đốt cháy thóc lúa! Cho nên phải bày thế trận cứu hỏa. Có trước - sau, trên - dưới bọc lót, che chở! Có “đào”, có “tát”, có “quay”! Có đăng đối trong không gian 4 phía, có liên thanh động từ để sau 40 âm tiết chia thành 10 nhịp tứ tự dồn dập, thơ tới được cao trào, và vút lên một thách thức, một tin tưởng: “Không mưa từ chín tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người”.
Thơ tứ tự đang vun vút hàng dọc, bỗng chuyển hàng ngang lục bát để dứt khoát “không … thì…” Dứt khoát được, là vì, trời chỉ có 9 tầng cao mà mỗi người nông dân những 10 ngón tay! Và họ đoàn kết để mười thành trăm, trăm thành nghìn…
Trong nền văn minh lúa nước, đề tài “mưa” là một thách thức để các tác gia dân gian và bác học cùng đua tài. Nếu ca dao có nhân vật chắp tay: “Lạy trời mưa xuống/ Lấy nước tôi uống/ Lấy ruộng tôi cầy/ Lấy đầy bát cơm/ Lấy rơm đun bếp” thì thần thoại để ông cóc tía gõ trống kiện trời, giúp con cóc bé tí, lớn vụt lên, cao hơn thiên đình: “Con cóc là cậu ông trời/ Ai mà đánh nó thì trời đánh cho”, và bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương làm cơn mưa thất ngôn bát cú thật ngang ngược: “Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa/ Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve/ Mải việc làm ăn quên cả mệt/ Dạng hang một lúc đã đầy phè”.
Ngay trong cuộc thi ta nhắc trên kia, nếu Bút Ngữ đáo để với ông trời, thì Ngô Văn Phú tha thướt, thơ mộng! Trong thơ, giữa đất và trời, mấy cô thôn nữ đẹp như các nàng tiên: “Trên trời mây trắng như bông/ Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây/ Mấy cô má đỏ hây hây/ Đội bông như thể đội mây về làng”.
Người viết sử bằng thơ và tiểu thuyết
Thái Bình, quê Bút Ngữ, nằm bên quốc lộ số 5 nối Hà Nội với Hải Phòng. Bằng con mắt của người làm thơ, Bút Ngữ thấy con đường hóa thành nét bút nối chiến tranh với hòa bình, hôm qua và hôm nay, hy sinh cùng thụ hưởng… những quan hệ có tính triết học ấy, lại hiển hiệt sinh động cụ thể trên con đường nối đất quê dưới chân mình với tít tắp trời xanh:
“Một đồng chí qua đường/ Một nấm mồ mới mọc/ Hai đồng chí qua đường/ Hai nấm mồ mới mọc…// Anh du kích Đường 5/ Lần mò trong gió buốt/ Tiếng cú rúc đêm sương/ Tiếng vợ ai thầm khóc/ Thần chết đón ngang đường…/ Nghĩ gì - Anh vẫn bước// Dậy đất một tiếng bom/ Lật tung đoàn tàu giặc/ Đồng lúa ven Đường 5/ Thêm nấm mồ mới mọc// Một chặng đầu Đường 5/ Một nhà máy mới mọc/ Hai chặng giữa Đường 5/ Hai nhà máy mới mọc// Ngày ngày máy tỏa khói/ Dệt những tấm màn xanh/ Từ lưng trời lướt tới/ Nhẹ phủ nấm mồ anh” (Anh du kích đường 5 - trích tập thơ Trên rừng hoa ban in chung với Ngọc Minh, NXB Văn học, 1962).
Nhà thơ Minh Huệ (1927 - 2003) có lời bình: “Bài thơ có tư tưởng tính tốt, có chủ đề rõ ràng, kiến trúc gọn, giản dị mà chắc, cấu tứ tròn trĩnh, có tìm tòi, có chọn lọc, không khí bài thơ gợi lên được không khí chiến đấu âm thầm, gian khổ và dũng cảm của những người du kích địch hậu”.
Bút Ngữ là người viết tiểu thuyết lịch sử rất có nghề, theo nhà phê bình văn học Nguyên An: "Điều đáng ghi nhận như là một thành công của Bút Ngữ ở tác phẩm Cần Vương Đông Du là cách viết, cách dựng tiểu thuyết, là mạnh dạn khắc họa tính cách nhân vật qua đối thoại và mô tả dáng vẻ bề ngoài, rất phù hợp với không gian lịch sử, bối cảnh xã hội quá khứ, qua đó làm nổi bật tính cách nhân vật. Gợi ra được vẻ kỳ vĩ và hùng tráng, có bi ai mà quật cường…”.
Không chỉ ghi chép, Bút Ngữ chính là người góp phần làm nên lịch sử văn học tỉnh Thái Bình thời hiện đại. Nhà văn Kim Chuông, kể trong Văn chương và bạn văn (NXB Hội Nhà văn):
Vào những năm 1970 - 1971, ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, lúc ấy đang là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình, bàn với nhà văn Bút Ngữ Thái Bình đâu chỉ “lúa”? Thái Bình đất văn chứ. Một trăm mười một vị tiến sĩ có bia trong Văn Miếu! Thế là, Bút Ngữ, nhà văn đang phụ trách tờ báo của tỉnh, được cử giữ vai trò “thủ lĩnh”, đứng đầu nhóm người sáng lập Hội văn học nghệ thuật.
Đất nước đang chiến tranh ác liệt, đi lại khó khăn. Xe không. Đường xa. Bom đạn địch bất thường. Bút Ngữ khi một mình. Khi đôi ba người, vai đeo túi vải, khi guồng xe đạp, lúc nhảy xe đò mải mê về các vùng để tìm người lập Hội. Bùi Công Bính từ Việt Bắc. Nguyễn Khoa Đăng ở một trường Vũ Thư. Võ Bá Cường ở huyện đảo Cẩm Phả. Đức Hậu đào than ở mỏ. Sau nữa, Hà Văn Thùy, Lê Bính rồi nhà thơ Hoàng Tố Nguyên, quê Gò Me, Nam bộ… Nhà văn Tô Hoài biết việc này ông động viên, bằng cách nói chuyện nghề văn: "Tác phẩm của Bút Ngữ, là những truyện ngắn, tiểu thuyết lịch sử về sông nước, đồng ruộng. Bút Ngữ đã khơi dòng cho một lực lượng mới”.
Ông thầy văn chương hiền lành, sâu sắc
Bút Ngữ từng là “hiệu trưởng” trường viết văn “Bút trên cành” dành cho thiếu nhi Thái Bình, với 4 khóa đào tạo kéo dài 20 năm từ Hè 1976 tới Hè 1996. Học sinh các lớp này tham gia 13 cuộc thi do Báo Thiếu niên Tiền phong tổ chức, nhằm hưởng ứng cuộc vận động thiếu nhi viết vẽ của Tổ chức UNESCO và báo Sự thật thiếu niên Liên Xô, hoặc do Ủy ban Khoa học kỹ thuật Việt Nam, Bộ Giáo dục, Tổng cục Bưu điện Việt Nam phát động. Những năm ấy các em ở Thái Bình nhận được 56 giải cá nhân và 5 giải đồng đội. Trong số giải cá nhân có tới 10 giải A và 13 giải B. Các em còn có 7 tranh được chọn vào Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 8 bài văn thơ và bức tranh được in hoặc trưng bày tại Liên Xô, Ấn Độ, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức…
Một học sinh giỏi của trường này, ngày ấy, người chiếm giải cao trong cuộc thi viết thư năm 1988 - chuyên gia ngôn ngữ Hán - Nôm Chu Xuân Giao nhớ lại:
- Gặp lại các tác giả được đưa vào sách giáo khoa: Prekimalamak - Một thi sĩ khiêm nhường
- Gặp lại các tác giả được đưa vào sách giáo khoa: Bể rộng sông dài trong thơ Trần Ninh Hồ
- Gặp lại các tác giả được đưa vào sách giáo khoa: Con chim bồng chanh đỏ của nhà văn Đỗ Chu
“Mãi sau này, khi tốt nghiệp đại học rồi, về thăm ông, mới vỡ ra, ông có vốn Hán văn không xoàng. Ông viết được bút lông. Do mình mải du lãng, còn thầy một dạo vào Nam với người con trai, nên tới cả 20 năm, 2 thầy trò không gặp nhau. Mở cổng để tôi vào nhà là chị B., con gái thầy. Tôi không xưng tên, chỉ nói là học trò. Tôi đi vội lên tầng 2. Tôi xúc động thực sự, trước mắt mình, thầy vẫn rất khỏe qua sắc mặt và dáng ngồi. Tôi cúi thấp chào thầy. Thầy lúc ấy đã quay sẵn ra phía cửa như chờ đợi, và nói: "Giao đấy à"! Xúc động đến ngỡ ngàng! Vậy là thầy vẫn nhận ra tôi. Thầy bảo, vẫn với nhịp điệu nho nhỏ điềm tĩnh như ngày xưa: "Dù thay đổi thế nào, nhưng cái nét xưa vẫn đủ nhận ra. Người ta mỗi người tựa như có một thứ tinh anh riêng, không lẫn được”.
Một học trò khác, cô giáo Bùi Thị Biên Linh, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tâm sự: “… thật bất ngờ khi tôi nhận được điện thoại của thầy Bút Ngữ. Ông ân cần hỏi han, động viên sáng tác. 39 năm kể từ ngày tôi vào Nam lập nghiệp và mất liên lạc với các “búp trên cành”, thầy vẫn nhớ rành rọt tên tôi và tên truyện tôi viết ngày ấy! Ở tuổi 90, thầy vẫn đọc và nhắn tin động viên khi chúng tôi in sách và gửi biếu. Tôi đã xúc động nghẹn ngào khi thầy gọi điện cho tôi và bảo “Bác đã đọc lần thứ 3 tập sách của cháu. Cháu viết ân tình lắm! Cái gốc của con người là phải biết sống ân nghĩa, ân tình”. Mỗi năm, khi Hội Nhà văn xét giải thường niên, mỗi 5 năm xét giải Nhà nước, các thành viên nhóm Búp trên cành lại hồi hộp ngóng trông và hy vọng có tên nhà Văn Bút Ngữ”.
Vài nét về nhà văn Bút Ngữ Nhà văn Bút Ngữ sinh năm 1931 tại Vũ Thư, Thái Bình, từng là Phó Tổng Biên tập Báo Thái Bình, Phó Trưởng Ty Văn hóa Thái Bình, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình, Ủy viên UBTW- Hội LHVHNT Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa III và IV. Ông vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979. Là tác giả của 25 đầu sách trong đó có 11 truyện dài và tiểu thuyết, nhà văn Bút Ngữ đã 2 lần được giải thưởng và tặng thưởng hàng năm của Hội Nhà văn Việt Nam. 4 lần giải thưởng Văn học Lê Quý Đôn của UBND tỉnh Thái Bình. Và nhiều giải thưởng trong các cuộc thi văn học. Hiện ông sống tại TP Thái Bình. |
(Còn tiếp)
Trần Quốc Toàn