Ưu tiên nguồn lực đầu tư sớm tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
Sáng 25/9, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nghe báo cáo tình hình triển khai Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (tháng 9/2024), Trung ương thống nhất chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc -Nam, xác định đây là nhiệm vụ chính trị và ưu tiên nguồn lực đầu tư thực hiện sớm.
Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành, đơn vị liên quan đang khẩn trương xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, chuẩn bị trình tự, hồ sơ thủ tục để trình Quốc hội.
Tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc - Nam
Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Danh Huy, mục tiêu đầu tư dự án nhằm xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc - Nam một cách tối ưu, bền vững, tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Mục tiêu cụ thể, phấn đấu phê duyệt chủ trương đầu tư trước năm 2025; giải phóng mặt bằng, khởi công trước năm 2030; hoàn thành toàn tuyến trước năm 2045.
Theo đó, về phạm vi đầu tư, điểm đầu tại thành phố Hà Nội: tổ hợp ga Ngọc Hồi (đầu mối vận chuyển hành khách và hàng hóa phía Nam của khu đầu mối đường sắt Hà Nội). Điểm cuối tại Thành phố Hồ Chí Minh: Ga Thủ Thiêm (đầu mối vận chuyển hành khách phía Đông của khu đầu mối đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh).
Dự án đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh.
Để tối ưu chi phí vận tải, phát huy ưu thế của từng phương thức, kinh nghiệm quốc tế, năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng hiện tại, kết quả dự báo nhu cầu vận tải, công năng của tuyến đường sắt trên trục Bắc - Nam, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đề xuất: xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; chiều dài khoảng 1.541 km với 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết; đường sắt Bắc - Nam hiện hữu vận chuyển hàng hóa và khách du lịch chặng ngắn. Tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam dự kiến đầu tư với chiều dài 60% là cầu, 10% là hầm và 30% là nền đất...
Tại cuộc họp, lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Khoa học và Công nghệ thảo luận, làm rõ một số nhóm vấn đề trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi chuẩn bị trình Quốc hội vào kỳ họp sắp tới như phạm vi đầu tư dự án, hiệu quả kinh tế phương án chuyên vận chuyển hành khách hoặc chạy kết hợp với tàu hàng, giữa việc đầu tư 2 đoạn tuyến và toàn tuyến...
Cùng với đó, có ý kiến cho rằng, cần xem xét, áp dụng các cơ chế, chính sách đặc thù đã áp dụng cho đường sắt đô thị ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cho các địa phương có tuyến đường sắt đi qua. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy đề xuất lập danh mục công nghệ sản xuất cụ thể cần tiếp nhận, chuyển giao, làm chủ trong ngành công nghiệp đường sắt.
Phát triển đường sắt tốc độ cao phục vụ quốc kế, dân sinh
Kết luận cuộc làm việc, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông vận tải tiếp tục tiếp thu, quán triệt chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cũng như các ý kiến đóng góp của bộ, ngành, chuyên gia và nhân dân; tiếp tục cập nhật, hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình Quốc hội, tập trung vào những vấn đề có cơ sở khoa học và thực tiễn.
Cụ thể, ngoài phạm vi đầu tư từ điểm đầu dự án (tại Hà Nội) đến điểm cuối (tại Thành phố Hồ Chí Minh), Bộ Giao thông vận tải cần xem xét, nghiên cứu để kéo dài kết nối tuyến đường sắt tốc độ cao từ Móng Cái đến Cà Mau.
“Bộ Giao thông vận tải tập trung phân tích ưu điểm, lợi ích của việc đầu tư toàn tuyến sẽ kết nối đồng bộ với các tuyến giao thông, vận tải khác, so với đầu tư trước một số đoạn tuyến; hiệu quả của đường sắt tốc độ cao chuyên vận chuyển hành khách hoặc kết hợp vận tải hàng hóa khi cần thiết, cần được xem xét chung đối với cả nền kinh tế, thay vì giới hạn trong ngành đường sắt”, Phó Thủ tướng nói.
Bên cạnh đó, báo cáo tiền khả thi cần thể hiện được quan điểm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt có tốc độ thiết kế 350 km/giờ “thẳng nhất có thể”, “gặp núi qua núi, gặp sông bắc cầu”.
Về hình thức triển khai đầu tư, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chỉ rõ ưu điểm, nhược điểm trong trường hợp coi toàn tuyến là một dự án hoặc có nhiều dự án thành phần; đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù về phân kỳ đầu tư, phân bổ nguồn vốn Trung ương, địa phương một lần hay theo giai đoạn 5 năm/lần, sử dụng trái phiếu, ODA và các nguồn hợp pháp khác, tận dụng dư địa mức trần nợ công...
Ngoài ra, Bộ Giao thông vận tải cần kiến nghị giải pháp tăng cường phân cấp, phân quyền, giao trách nhiệm cho địa phương về chuẩn bị mặt bằng, xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật, nhà ga… Còn Trung ương thống nhất quản lý quy chuẩn, tiêu chuẩn từ thiết kế, hạ tầng, phương tiện, hệ thống thông tin, điều hành…; đồng thời “phân công nhiệm vụ” cho doanh nghiệp tư nhân để huy động nguồn lực bên ngoài, từ quỹ đất hai bên tuyến đường sắt để giảm bớt chi phí của Nhà nước.
“Các cơ chế, chính sách đặc thù đã áp dụng cho đường sắt đô thị ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cần được xem xét áp dụng cho các địa phương có tuyến đường sắt đi qua”, Phó Thủ tướng nêu rõ và nhấn mạnh, “trong dự án phải có cơ chế cho địa phương, doanh nghiệp tư nhân”.
Phó Thủ tướng giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Cục Đường sắt Việt Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, một số doanh nghiệp... xây dựng và triển khai lộ trình tiếp nhận, chuyển giao, làm chủ công nghệ và phát triển công nghiệp đường sắt từ sản xuất trang thiết bị, vận hành, quản trị; bảo đảm đồng bộ, thống nhất về công nghệ, quy chuẩn, tiêu chuẩn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải cần triển khai "trước một bước" trong công tác đào tạo nguồn nhân lực, sẵn sàng tiếp nhận, làm chủ công nghệ, thiết kế kỹ thuật, chế tạo trang thiết bị, vận hành, quản lý... ngành đường sắt.
“Lấy phát triển đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị nói riêng, đường sắt Việt Nam nói chung để tạo cú hích cho ngành cơ khí, chế tạo, tự động hóa... và các ngành công nghiệp khác để phục vụ quốc kế, dân sinh”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.