Áo dài Việt - tâm hồn Việt, văn hóa Việt
(Thethaovanhoa.vn) - Ngày 14/6/2020, tại sân khấu thực cảnh Ký ức Hội An (thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) sẽ diễn ra Lễ hội áo dài - Danh thắng Việt Nam. Với ý tưởng xuyên suốt là 17 di sản và danh thắng đã được công nhận là di sản thế giới, lễ hội sẽ tạo ra nhiều cảm xúc mới, chứng minh sức sống mãnh liệt của chiếc áo dài Việt Nam.
Tâm hồn Việt, văn hóa Việt
“Dù ở đâu - Paris, London hay những miền xa/Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố/Sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó, em ơi…” Không ngẫu nhiên mà lời bài hát “Một thoáng quê hương” của nhạc sĩ Từ Huy - Thanh Tùng trở thành âm điệu quen thuộc với đông đảo người Việt Nam. Bởi vì, cả trăm năm qua, áo dài đã từ đời sống đi vào nghệ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa… thậm chí trở thành một biểu tượng, một phần tâm hồn người Việt trên chính quê hương hay ở khắp thế giới.
Nếu như Hàn Quốc có Hanbok, Nhật Bản có Kimono, Scotland có váy Kilt... thì Việt Nam được biết đến với tà áo dài duyên dáng. Từ "Áo dài" đã được đưa nguyên bản vào từ điển Oxford. và được giải thích là một loại trang phục của phụ nữ Việt Nam với thiết kế hai tà áo trước và sau dài chấm mắt cá chân che bên ngoài chiếc quần dài.
Miêu tả về tà áo dài Việt Nam, nhà thơ Đinh Vũ Ngọc đã có những câu thơ rất đẹp: “Chiếc áo quê hương dáng thướt tha/ Non sông gấm vóc mở đôi tà/ Tà bên Đông Hải lung linh sóng/ Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa/ Vạt rộng Nam phần chao cánh gió/ Vòng eo Trung bộ thắt lưng ngà/ Nhịp tim Hà Nội nhô gò ngực/ Hương lúa ba miền thơm thịt da”.
Tuy chưa có văn bản chính thức nào quy định áo dài là quốc phục, nhưng từ xưa đến nay, trong tâm thức người Việt Nam và trong mắt bạn bè quốc tế thì tà áo dài truyền thống được xem là một biểu tượng chứa đựng tinh hoa-văn hoá của dân tộc Việt. Áo dài được sử dụng trong nhiều sự kiện, từ những nghi lễ trang trọng trong gia đình, công sở, xã hội, ngoại giao… cho đến biểu diễn nghệ thuật, ứng dụng hằng ngày, nhất là vào dịp lễ hội, Tết cổ truyền; trình diễn trong các kỳ festival, tuần lễ thời trang, thi hoa hậu, người đẹp trong và ngoài nước…
Khác với những trang phục truyền thống của nhiều nước trên thế giới, mặc áo dài, phụ nữ Việt không cần tốn nhiều thời gian, lại đơn giản, gọn gàng, duyên dáng mà thanh lịch. Có lẽ chính vì vậy mà áo dài - trang phục truyền thống đã “len lỏi” vào cuộc sống hằng ngày của phụ nữ Việt một cách tự nhiên và dễ dàng. Qua nhiều nghiên cứu, chiếc áo dài được khẳng định chính là một niềm kiêu hãnh của người Việt Nam, bởi không phải dân tộc nào cũng có trang phục mang vẻ đẹp vừa kín đáo, vừa duyên dáng, gợi cảm như vậy.
Vì lẽ đó, ngoài việc gắn liền với sự phát triển của đời sống xã hội, áo dài còn là “cầu nối”, là “sứ giả” trong việc quảng bá du lịch Việt. Khách du lịch khi đến Việt Nam, nhất là các nữ du khách thường chọn áo dài như món quà lưu niệm độc đáo, đặc sắc.
Trong những năm gần đây, bằng sự nỗ lực, tinh thần tự hào dân tộc, nhiều nhà thiết kế đã đem đến cho chiếc áo dài những vẻ đẹp mới lạ. Nhà thiết kế Minh Hạnh, Sĩ Hoàng, Võ Việt Chung... là những người đã góp phần làm rạng rỡ thêm tên tuổi trang phục áo dài trên làng thời trang khu vực và quốc tế. Vượt qua giá trị của chính mình trong vai trò một sản phẩm tiêu dùng, chiếc áo dài đã đạt đến một vai trò quan trọng hơn đó là một sản phẩm văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc, là biểu tượng của phụ nữ Việt Nam.
Lịch sử áo dài Việt Nam
Cho đến nay vẫn chưa xác định rõ nguồn gốc của chiếc áo dài Việt Nam đã được bắt đầu chính xác từ đâu nhưng dựa trên bối cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, các nhà nghiên cứu đưa ra một kết luận thống nhất chung khẳng định bộ quốc phục này đã xuất hiện cách đây hàng nghìn năm. Để có được một chiếc ào dài mang đậm nét văn hóa đặc trưng như ngày nay, bộ trang phục này đã phải trải qua nhiều giai đoạn biến thể khác nhau.
Hình ảnh cổ xưa nhất của áo dài được biết đến là áo Giao lĩnh (khoảng năm 1744). Ở giai đoạn này đất nước được trị vì bởi chúa Nguyễn Phúc Khoát ở phía Nam, còn phía Bắc là chúa Trịnh. Lúc này, áo có kích thước rộng, thân áo được may bằng 4 tấm vải, dài chấm gót chân, xẻ 2 bên hông, phần tay áo dài, cổ tay rộng. Áo mặc cùng váy đen bên trong và thắt lưng vải bên ngoài. Theo ông Phan Thanh Hải Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên-Huế, chúa Nguyễn Phúc Khoát là người có công rất lớn để có được chiếc áo dài, vị thế áo dài như ngày hôm nay. Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã chủ trương cải tổ triều phục, cải cách trang phục dân gian xứ Đàng Trong, đưa áo dài trở thành trang phục chính thức.
Đến thế kỷ XVII, để thuận tiện hơn trong công việc làm đồng và buôn bán, chiếc áo Giao lãnh được thiết kế gọn lại thành kiểu áo tứ thân, trong đó vạt trước được xẻ rời thành 2 vạt, người mặc có thể buộc 2 vạt này lại với nhau ở phía trước bụng. Áo tứ thân thường có màu tối vì trang phục này được sử dụng phổ biến ở tầng lớp nông dân - những người lao động quanh năm với ruộng đồng.
Thế kỷ XIX, áo dài ngũ thân được ra đời nhằm tạo ra sự cách biệt giữa tầng lớp quý tộc sang trọng và tầng lớp nông dân. Dựa trên cơ sở áo tứ thân, phần thân vạt trước của áo dài ngũ thân được bổ sung thêm một vạt áo như lớp lót kín đáo chính là vạt áo thứ 5. Kiểu áo này được may theo phom rộng, có cổ và rất thịnh hành đến đầu thế kỷ XX.
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, áo dài Lemur được ra đời bởi bàn tay sáng tạo của họa sĩ Cát Tường. Áo được may ôm sát cơ thể, chỉ có hai vạt trước và sau, vạt trước dài chấm đất. Nhằm tạo điểm nhấn, chiếc áo dài Lemur được Âu hóa với phần áo có thắt eo, dáng tay phồng, cổ áo khoét hình trái tim… Có lẽ vì lý do này nên áo dài Lemur vấp phải sự phản đối của dư luận cho rằng kiểu áo này bị lai Tây, không đúng đắn, không phù hợp phong tục tập quán Việt Nam thời bấy giờ.
Đến thời áo dài Lê Phổ, dưới bàn tay khéo léo của nhà thiết kế cùng tên, bà đã thu gọn kích thước áo dài để ôm vừa vặn thân hình người phụ nữ Việt Nam, đẩy cầu vai, kéo dài tà áo chạm đất và đem đến nhiều màu sắc mới mẻ. Nói cách khác, bà khiến nó trở nên gợi cảm, tinh tế và thu hút hơn. Đây là chiếc ào dài nhận về khá nhiều sự khen ngợi và được sử dụng qua nhiều thời kỳ.
Đến những năm 1960, áo dài Raglan (còn gọi là áo dài giắc lăng) ra đời do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra. Điểm khác biệt lớn nhất của áo dài Raglan là áo ôm khít cơ thể hơn, cách nối tay từ cổ chéo xuống một góc 45 độ giúp người mặc thoải mái linh hoạt hơn. Hai tà nối với nhau bằng hàng nút bấm bên hông. Đây chính là kiểu áo dài góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.
Đến nay, áo dài Việt Nam có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ hiện đại đến phá cách. Nhưng dù thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được nét uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo mà không trang phục nào có được.
Về Lễ hội áo dài - Danh thắng Việt Nam
Lễ hội áo dài - Danh thắng Việt Nam là câu chuyện kể về đời sống của chiếc áo dài qua mọi nẻo đường đất nước, qua bao thăng trầm lịch sử… tuy đã thay đổi diện mạo qua mỗi thời đại, nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống.
Với ý tưởng xuyên suốt là 17 di sản và danh thắng Việt Nam, từ Hoàng thành Thăng Long, Vịnh Hạ Long, Di tích Tràng An, Di tích Mỹ Sơn, Chùa Cầu Hội An, Phong Nha Kẻ Bàng, cho tới cồng chiêng Tây Nguyên, với sự sáng tạo của tập thể các biên đạo và 17 nhà thiết kế được hàng trăm diễn viên múa và người mẫu trình diễn trên sân khấu hiện đại… Lễ hội áo dài - Danh thắng Việt Nam sẽ tạo ra nhiều cảm xúc mới, chứng minh sức sống mãnh liệt của chiếc áo dài Việt Nam.
Theo nhà thiết kế Minh Hạnh, tổng đạo diễn chương trình, khi trình diễn 17 bộ sưu tập với hình ảnh các danh thắng Việt Nam tại sân khấu thực cảnh Ký ức Hội An, chắc chắn áo dài sẽ có thêm giá trị mới. Đó cũng là diện mạo mới thật sinh động, thật duyên dáng, thật mới lạ trên hành trình sáng tạo, nâng tầm và khẳng định giá trị bản sắc văn hóa Việt Nam.
Minh Hiếu/TTXVN (tổng hợp)