Tết xưa - Tết nay (kỳ 3 & hết): Xu hướng 'Tết du lịch' cũng không phá vỡ truyền thống
(Thethaovanhoa.vn) - Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, là một chuyên gia thực địa, có nhiều công trình nghiên cứu về việc phát huy giá trị di sản trở thành nguồn lực phát triển kinh tế. Ông có hàng chục đầu sách, bài báo, công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa dân gian ứng dụng, về ảnh hưởng của các nhân tố tộc người đến sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển du lịch nhân văn.
Nhân chủ đề Tết xưa - Tết nay, Thể thao và Văn hóa (TTXVN) đã có cuộc trò chuyện với ông.
* Có nhiều ý kiến cho rằng, để tiết kiệm thời gian, tiền bạc, chúng ta nên “gộp” Tết Dương lịch và Tết Âm lịch của dân tộc làm một, để “ăn Tết” như nước Nhật Bản, ông nghĩ sao về ý kiến này?
- Trong nhiều năm qua, sắp tới thời gian đón Tết, dư luận truyền thông lại sôi nổi tranh luận có nên gộp “Tết Tây” với “Tết ta” không? Một số nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà quản lý phân tích việc gộp 2 Tết lại với nhau mang lại nhiều lợi ích về kinh tế. Có người bảo: “Tết ta nghỉ dài quá, sau một đợt Tết Tây cũng được nghỉ, thì lãng phí rất nhiều thời gian lao động, sản xuất. Hơn nữa, nước ta có nhiều doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, tổ chức Tết 2 lần lại càng lãng phí về thời gian, tiền bạc…”.
Thoạt nghe, tôi thấy cũng có lý, nhưng nghĩ kỹ ra và quan sát đời sống văn hóa của người dân, tôi nhận thấy, các nhà khoa học mới chỉ dừng lại ở lợi ích kinh tế, nhất là kinh tế sản xuất chứ không nhìn nhận về góc độ văn hóa.
Tết truyền thống là di sản văn hóa của dân tộc, nó có tính biểu trưng, cũng là thẻ căn cước tộc người. Vì vậy, khi xem xét về việc gộp “Tết Tây” với “Tết ta” cần phân tích toàn diện chứ không chỉ vì lợi ích kinh tế. Mặt khác, trong kinh tế của khu vực sản xuất và dịch vụ, ngày thường khu vực sản xuất nổi trội, cần huy động nhiều nguồn lực tham gia nhưng ngày lễ Tết lại là mùa “gặt hái” của khối dịch vụ. Nguồn thu kinh tế chỉ chuyển từ sản xuất sang dịch vụ tiêu dùng chứ không mất đi.
Vì vậy, không nên quá lo lắng về việc duy trì tổ chức Tết Âm lịch ảnh hưởng đến sản xuất.
* Tết là dịp để con cháu đoàn tụ trong không khí đầm ấm gia đình, để hương khói tưởng nhớ Tổ tiên, nếu như “quan niệm này thay đổi” liệu di sản văn hóa tinh thần có mất theo?
- Trong Tết truyền thống, đặc trưng của ngày Tết là ngày sum họp. Đó là sự sum họp giữa các thành viên trong gia đình với nhau, giữa ông bà, bố mẹ và con cháu đi xa trở về nhà. Đấy là sự sum họp, đề cao tính cộng đồng giữa các thành viên gia đình với làng xã. Và hơn nữa, đó là sự sum họp giữa “thế giới người sống” với “thế giới người đã khuất” mà đại diện là tổ tiên. Vì thế mới có tục “tảo mộ” (mời tổ tiên đã khuất về ăn Tết), có tục “hóa vàng” (tiễn tổ tiên về thế giới bên kia khi ăn Tết xong)…
Cái đặc trưng sum họp đã tạo nên một “cuộc di chuyển” khổng lồ, hàng triệu lao động từ khắp miền Tổ quốc, từ bên kia trời Âu Mỹ, Đông Bắc Á… cũng lo bươn chải, vất vả vượt hàng nghìn, hàng vạn cây số về quê đón Tết. Như thế, cuộc sống cũng đặt ra những yêu cầu mới, sự sum họp gia đình trong một không gian vật lý cụ thể là mái ấm ngôi nhà, là sân đình lễ hội, là bàn thờ thiêng… cũng có xu hướng biến đổi.
Xu hướng thứ nhất, một số bạn trẻ mới lập gia đình, đi làm ăn xa thấy Tết là thời điểm rất khó khăn cho đi lại, tốn kém nên họ đã chọn ngày giỗ chạp hay ngày vui của gia đình để trở về đoàn tụ thay cho ngày Tết. Như vậy, các bạn trẻ cũng tiết kiệm được bao nhiêu kinh phí đi lại. Có người công nhân trong các doanh nghiệp nước ngoài chọn làm thêm ca trong ngày Tết với hệ số tiền lương cao. Đó cũng là một hướng ứng xử hài hòa với truyền thống.
Các thành viên không về ăn Tết cùng bố mẹ nhưng nhờ công nghệ thông tin nên khoảng cách không gian bị xóa nhòa. Toàn bộ việc ăn Tết, quang cảnh ngày Tết, sự đầm ấm gia đình… đã được “nối mạng” thông qua các hình thức Facetime, Zalo Messenger, Viber, Video Calls… Ông bà càng cảm động khi nghe đứa bé bi bô chúc Tết từ khoảng trời Tây “cháu chúc ông bà mạnh khỏe, sống lâu”. Tấm lòng người già đầy hạnh phúc, cảm động. Sự trống vắng, nỗi nhớ mong đã được giảm đi rất nhiều.
Một hình thức khác, con cái chỉ đoàn tụ với gia đình ngày 30, sáng mùng 1, còn lại là đi chơi Tết phương xa theo hình thức Tết du lịch, Tết di động…Quỹ thời gian nghỉ Tết có ít, họ chỉ dành một phần để đón Tết quê hương, còn một phần để khám phá Tết thiên hạ… Âu, đó cũng là một hình thức ứng xử của thời @. Với các hình thức đón Tết này, tuy sự sum vầy, tụ họp không được trọn vẹn nhưng vẫn đầm ấm. Niềm vui xa đã được nối gần, không gian vật lý đã nhường chỗ cho không gian ảo.
Xu hướng Tết du lịch, khám phá Tết ở nơi xa sẽ ngày càng phát triển nhưng cũng không phá vỡ quan điểm truyền thống. Sẽ xuất hiện 2 xu hướng đón Tết. Xu hướng thứ nhất, là giảm thời gian đón Tết ở nhà, tăng thời gian khám phá. Xu hướng thứhai, là cả nhà, con cháu đón mẹ cha, ông bà đều tham gia Tết khám phá, thậm chí đón Giao thừa ở ngay nơi du lịch. Như vậy, thế giới tổ tiên cũng phải theo chân con cháu đến đón Giao thừa ở nơi mới.
* Trước những xu hướng ấy, ông thấy Tết nay, có gì khác so với Tết xưa?
- Tết Cổ truyền người Việt đã biến đổi rất nhiều nhưng giá trị về niềm vui đón chào năm mới với ước vọng hơn hẳn năm qua vẫn được duy trì. Một số phong tục đón Tết có thể chuyển hóa theo không gian, thời gian và tác động của quá trình toàn cầu hóa nhưng bản sắc riêng của Tết Việt vẫn tồn tại.
Hồn cốt của Tết là quan niệm đổi mới, đón chào cái mới, bản sắc của Tết phản ánh tính cộng đồng, sum họp gia đình, dòng họ, xóm làng, … (kể cả thế giới đang sống và thế giới thần linh). Phong tục tập quán riêng của những ngày Tết có nhiều đặc điểm mang sắc thái riêng của người Việt đã được phản ánh qua câu đối:“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Bây giờ, nhiều người không còn tin vào chức năng của cây nêu, do đó các gia đình bỏ tục trồng cây nêu ngày Tết. Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm an toàn cho xã hội nên “tràng pháo” cũng không còn. Duy chỉ còn“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, bánh chưng xanh” vẫn còn tồn tại mãi xuyên qua nhiều thế kỷ đến hôm nay.
Cộng đồng cư dân người Việt ở đô thị, ở các phương trời xa cũng tái sáng tạotục đón Giao thừa, du xuân, đón Tết. Tết ngày nay cũng có nhiều điểm khác xa với Tết ngày xưa. Từ Tết Cổ truyền đến Tết thời bao cấp và hiện nay đã có nhiều yếu tố biến đổi. Trong Tết Truyền thống, gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín; do đó, gia đình phải chuẩn bị, gieo trồng, chăm sóc, chăn nuôi, gặt hái sao cho đủ sản vật phục vụ ngày Tết. Mỗi gia đình cũng có vài thửa ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ ngon để làm bánh chưng, nấu cơm ngày Tết. Họ cũng tự nấu rượu, làm bánh mứt Tết, nấu chè lam, rang hạt bí, … Mỗi gia đình cũng là một hộ chăn nuôi gà, lợn, làm cỗ Tết. Còn hiện nay, kinh tế phát triển, hệ thống các dịch vụ mua sắm Tết (qua phiên chợ Tết, qua siêu thị, mua hàng online đem đến tận nhà, …) đã giải phóng sức lao động, lo toan ngày Tết vất vả của mọi người. Thời gian “làm Tết, ăn Tết” đã chuyển sang “chơi Tết” là chính.
Nhu cầu đời sống vật chất ngày Tết được giải quyết, nhà nhà đều lo đến nhu cầu về đời sống tinh thần. Mỗi gia đình đều lo sắm hoa Tết theo nhu cầu, địa vị xã hội và khả năng kinh tế. Đơn giản nhất cũng phải có cành đào hay cành mai, cây quất, nhưng nhà khá giả hơn thì phải chọn quất thế độc đáo, chọn hoa quả bày bàn thờ phải có chữ “Phúc, Lộc, Thọ”, …Tết ở mỗi gia đình đô thị với vẻ ấm áp, tính cộng đồng có vẻ giảm đi, mỗi người một phòng, một TV, một laptop xem chương trình riêng. Nhưng tính cộng đồng với không gian lớn ngày càng mở rộng. Thanh niên đến với các lễ hội âm nhạc, dạ hội đường phố lên tới hàng chục vạn người trong khi người già, trung niên lên viếng đền chùa, …
Tuy nhiên, việc sum họp mừng năm mới với nhiều hình thức khác nhau vẫn tồn tại. Ở mâm cúng tất niên, ở các lễ tục mừng tuổi chúc Tết ông bà, thầy giáo. Tết có xu hướng chuyển nhanh từ ăn Tết sang chơi Tết. Nhiều thú vui dân gian lúc còn, lúc mất nhưng dòng chảy của Tết vẫn chảy mãi.
* Chúng ta sẽ làm gì để giữ gìn bản sắc Tết Việt trong xu thế hội nhập mà không bị “hòa tan”?
-Trước hết, chúng ta cần nghiên cứu các xu hướng biến đổi của Tết. Đồng thời, chúng ta cũng cần đổi mới nhận thức. Tết là di sản văn hóa phi vật thể, luôn được cộng đồng tái sáng tạo. Do đó, cũng không cần quá lo về việc gìn giữ nhiều nét phong tục cổ xưa mới là Tết. Dù biến đổi đến đâu chăng nữa, thì ngày Tết là Tết đoàn viên, sum họp gia đình; Tết gặp gỡ giữa người thân, hàng xóm, quê hương; Tết gặp gỡ giữa con cháu với tổ tiên (qua tảo mộ, mâm cũng Tất niên, qua lễ hóa vàng…). Hồn của Tết chính là mong ước đón năm mới an khang thịnh vượng hơn năm cũ.
Tuy nhiên, chúng ta muốn bảo tồn được di sản văn hóa Tết trong dòng chảy toàn cầu hóa thì cần có những chính sách đề cao giá trị Tết Việt, khuyến khích cộng đồng tự sáng tạo, tự tổ chức các hình thức đón Tết. Ở đây vai trò của cộng đồng là yếu tố quan trọng nhất. Chỉ có cộng đồng mới bảo tồn, phát huy được di sản văn hóa Tết. Do đó, mọi chính sách đều hướng về cộng đồng, trao quyền cho cộng đồng.
* Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này!
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, bánh chưng xanh” xuyên nhiều thế kỷ Tết Việt đã được phản ánh qua câu đối:“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Bây giờ, nhiều người không còn tin vào chức năng của cây nêu, do đó các gia đình bỏ tục trồng cây nêu ngày Tết. Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm an toàn cho xã hội nên “tràng pháo” cũng không còn. Duy chỉ “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, bánh chưng xanh” vẫn còn tồn tại mãi xuyên qua nhiều thế kỷ đến hôm nay. |
Phương Khánh (thực hiện)