Plácido Domingo - Linh hồn ca khúc 'Mundial ’82': Giọng opera hoàn hảo cho... bóng đá
Ca khúc gợi nhớ nhất về năm 1982 phải là ca khúc chủ đề của Espana 82 mang tên Mundial ’82 do Plácido Domingo thể hiện. Người đàn ông hoàn hảo của bóng đá này là một trong số những nghệ sĩ opera nổi tiếng nhất thế giới với hơn 100 vở opera được thu âm và thắng 14 giải Grammy, Grammy Latin.
Ngày nay, từ trước khi World Cup diễn ra, trong từng góc hẻm khắp thế giới đã vang động tiếng ca khúc đại diện cho mùa bóng lăn năm đó. Nhiều khi, chỉ vài nốt nhạc có thể tái hiện cả một mùa Hè sôi động, thậm chí, biến cả kỳ nhàm chán thành đáng nhớ như trường hợp Un’estate Italiana 1990.
Lựa chọn kỹ lưỡng
Năm 1982 không chỉ đánh dấu việc mở rộng từ 16 lên 24 đội tham dự, ca khúc World Cup cũng có một bước tiến dài - mà ngày nay là một tiêu chuẩn - khi quảng bá đậm chất văn hóa nước chủ nhà. Tại các kỳ World Cup trước, tiếng Tây Ban Nha đã được vang lên ở Chile 1962, Mexico 1970 và cả ở Tây Đức 1974. Lần này, nó mới trở về với gốc rễ của mình, trong giai điệu và chất giọng không thể Tây Ban Nha hơn.
Đó là lần đầu tiên - và cũng là duy nhất cho tới nay - Tây Ban Nha đăng cai sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh. Thế nên, dù nó chỉ kéo dài 29 ngày, trong rất nhiều tháng, cuộc sống của cả đất nước xoay quanh World Cup trong một nỗ lực quảng bá (hay trong một số trường hợp, giải cứu) Tây Ban Nha đi khắp thế giới (đến mức bị tếu hài trong bộ phim Nacional III của Luis G. Berlanga).
Âm nhạc tiếng Tây Ban Nha khi đó có thể chưa phải thế lực lớn thứ hai trên thế giới, sau tiếng Anh, như hiện nay nhưng luôn là cái nôi văn hóa với bề dày lịch sử. Và còn điều gì được quảng bá rộng rãi ở World Cup hơn ca khúc chủ đề? Thế nên, lựa chọn không thể qua loa. Nó phải thể hiện được văn hóa và vị thế Tây Ban Nha, đồng thời, phải như “bùa may và chữa lành”. Nghe có vẻ phức tạp nhưng hóa ra, không khó để chọn lựa: Vào năm 1982, giọng hát ngân nga qua khắp các ô cửa sổ xứ Bò tót chính là Plácido Domingo. Sự lựa chọn hiển nhiên này còn như một định mệnh khi khởi đầu một mối lương duyên lâu dài giữa Domingo với môn thể thao vua.
Mundial ’82 do Jose Torregrosa viết nhạc và Alfredo Garrido viết lời vấp phải một số ý kiến phê bình rằng cả nhạc và lời đều mang tới cảm giác xui rủi. Có thể dẫn ra đoạn cuối: “Cuối cùng, tất cả im lặng/ Những đội bóng lớn nhất bước ra/ Tình yêu của hàng ngàn người vỡ òa trong gió..." |
Lựa chọn hoàn hảo
Plácido Domingo sinh năm 1941 tại Madrid, Tây Ban Nha. Mẹ ông kể rằng cả bà và chồng đều biết Domingo sẽ trở thành nhạc sĩ khi mới lên năm do khả năng ngâm nga những điệu zarzuela - loại hình biểu diễn sân khấu dân gian của Tây Ban Nha - phức tạp chỉ sau một lần nghe.
Vài ngày trước khi lên tám, Domingo cùng gia đình chuyển tới Mexico. Bố mẹ ông, đều là những ca sĩ, đã thành lập một công ty zarzuela sau thành công của chuyến lưu diễn Mỹ Latin. Ngay khi tới Mexico, Domingo đã thắng trong một cuộc thi hát cho nam và được bố mẹ cho diễn ở những vai trẻ em ở các tác phẩm zarzuela của họ. Domingo được đào tạo bài bản tư nhân từ nhỏ và lên 14 tuổi thì vào Nhạc viện Quốc gia Mexico. Ở đây, ông nổi tiếng cả ở giọng nam trung và nam cao.
Năm 16 tuổi, Domingo bắt đầu biểu diễn chuyên nghiệp, bắt đầu từ công ty của bố mẹ và sau đó là ở những nơi khác. Ngoài biểu diễn, ông còn là trợ lý nhạc trưởng và trợ lý huấn luyện. Ở tuổi 18, ông thử giọng ở Nhà hát Opera Quốc gia và được nhận cả ở tư cách nam cao và gia sư cho các giọng ca khác. Vô cùng bận rộn, Domingo vẫn kiếm thêm tiền khi chơi dương cầm cho một công ty ballet hay biên soạn nhạc. Sau này, trong cuốn tự truyện của mình, ông nhận thấy rõ lợi ích của một tuổi trẻ đa năng: “Ngày nay, khi mọi người hỏi tôi làm thế nào có thể xoay sở với khối lượng công việc cực kỳ nặng nề, tôi trả lời rằng mình đã quen với cường độ làm việc cao từ rất sớm”.
Tài năng và chăm chỉ, mới 25 tuổi, Domingo đã được The New York Times lưu ý: “Ông Domingo vẫn ấn tượng như bao giờ - một ca sĩ lớn, vạm vỡ, giọng vang vọng chính xác như những gì người ta hình dung về một anh hùng Tây Ban Nha thời Gothic”. Năm 27 tuổi, Domingo lần đầu ra mắt Nhà hát Metropolitan ở New York và từ đó, đã mở màn mùa diễn ở đây 21 lần, vượt xa kỷ lục người kế trước là Enrico Caruso với bốn lần. Liên tiếp sau đó là các nhà hát quốc gia ở những kinh đô âm nhạc lớn nhất thế giới.
Nhưng không chỉ là nghệ sĩ đình đám trong giới sân khấu kinh viện, Domingo còn là nghệ hoạt động chéo dòng cực kỳ thành công. Thập niên 1980 là giai đoạn tiếng tăm của ông vươn lên chóng mặt. Năm 1981, Domingo được giới ngoài opera công nhận đáng kể khi ghi âm ca khúc Perhaps Love cùng ca sĩ đồng quê/dân gian Mỹ John Denver. Ông đã nối tiếp thành công này với nhiều album pop và nhạc Latin, hi vọng sẽ mở rộng nhóm người hâm mộ theo cách khiến nhiều người tìm hiểu về opera hơn. Bước đột phá này của Domingo đưa tên tuổi ông ngang hàng các siêu sao, được mời tới những chương trình truyền hình ăn khách nhất với số lượng đáng kể các buổi diễn được chiếu trên truyền hình.
FIFA World Cup chính thức ra đời vào năm 1930, vốn không có ca khúc đại diện. Phải hơn 30 năm sau, vào năm 1962, khái niệm này mới ra đời với El Rock del Mundial 1962 ở Chile. |
Với kinh nghiệm diễn xuất trước máy quay trong nhiều vở opera truyền hình, Domingo còn lấn sang điện ảnh trong bộ phim La Traviata năm 1982. Đây cũng chính là thời điểm ông thu âm ca khúc World Cup 1982 Mundial ’82.
Nếu một nghệ sĩ đi lên từ dòng nhạc dân gian Tây Ban Nha, vô cùng tài năng cùng đạo đức nghề nghiệp hoàn hảo, lại là ngôi sao thế giới với ngoại hình anh hùng vẫn chưa đủ để coi là phù hợp thì có thể kể thêm rằng Domingo có mối quan hệ tích cực với thể thao. Ngày nhỏ, ông vẫn mơ ước thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hoặc võ sĩ đấu bò tót.
- Italy đề cử opera là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
- Nhà hát Opera Paris có giám đốc âm nhạc mới
- Vĩnh biệt huyền thoại opera Jessye Norman
Mundial ’82 do Jose Torregrosa viết nhạc và Alfredo Garrido viết lời vấp phải một số ý kiến phê bình rằng cả nhạc và lời đều mang tới cảm giác xui rủi. Có thể dẫn ra đoạn cuối: “Cuối cùng, tất cả im lặng/ Những đội bóng lớn nhất bước ra/ Tình yêu của hàng ngàn người vỡ òa trong gió/ Khi thấy đội họ thích/ Tất cả đứng lên nghe những bài thánh ca/ Gương mặt nhăn nhó lo lắng/ Những đội được chọn đang mơ về chiến thắng”. May mắn thay, nhờ có Domingo - đúng như mong muốn về một “bùa may” - bằng giọng nam cao hùng dũng của mình đã đưa Mundial ’82 xua tan mọi bóng tối có thể, thể hiện được đúng tinh thần Tây Ban Nha sôi sục.
Tới nay, trong các cuộc bình chọn ca khúc World Cup vĩ đại nhất không bao giờ thiếu bóng Mundial ’82.
Lương duyên với thể thao của nghệ sĩ opera nổi tiếng thế giới Sự lựa chọn của Tây Ban Nha ngày một được thời gian chứng nhận là chính xác. Domingo hiện nằm trong số những nghệ sĩ opera nổi tiếng nhất thế giới. Ông đã thu âm hơn 100 vở opera bằng tiếng Italy, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Anh và biểu diễn ở hầu hết mọi nhà hát lớn cùng các lễ hội lớn khắp thế giới. Ngoài 14 giải Grammy và Grammy Latin, vô số đĩa của ông đạt chứng nhận bạc, vàng, bạch kim và nhiều lần bạch kim. Cùng với hai giọng nam cao Luciano Pavarotti và Jose Carreras, ông lập thành nhóm The Three Tenors với album đầu Carreras Domingo Pavaratti in Concert là album cổ điển bán chạy nhất mọi thời đại. Thành công của Mundial ’82 còn mở ra một hành trình dài giữa Domingo và môn thể thao vua. The Three Tenors đã biểu diễn trước bốn đêm chung kết World Cup vào năm 1990, 1994, 1998 và 2002 để gây quỹ. Trong đó, tại lần thứ hai ở SVĐ Dodger, Mỹ, đã có hơn 1,3 tỷ người dõi theo họ. Không có Pavarotti và Carreras, Domingo xuất hiện ở chung kết World Cup 2006 ở Berlin cùng hai ngôi sao đang lên là Anna Netrebko và Rolando Villazon. Trước chung kết World Cup 2014, ông diễn tại Rio de Janeiro với nghệ sĩ dương cầm Lang Lang và giọng nữ cao Ana Maria Martinez. Là cổ động viên lớn của Real Madrid C.F - đội bóng quê ông - Domingo là người hát ca khúc kỷ niệm 100 năm thành lập CLB Himno del Centenario del Real Madrid. Ông cũng được mời tới diễn ở kết thúc mùa giải 2012 khi Real Madrid vô địch giải Tây Ban Nha. Ngoài bóng đá, Domingo cũng biểu diễn ở những lễ khai mạc, bế mạc thể thao lớn bậc nhất hành tinh như bế mạc Olympic 1992 và 2008. |
Thư Vĩ (Tổng hợp)