Những cơn giận dữ và máu ăn thua đã tạo nên Alex Ferguson vĩ đại (Phần 4)
(Thethaovanhoa.vn) - Cầu thủ đầu tiên mà Ferguson thật sự để mất ở Aberdeen là Archibald. Ông ngưỡng mộ cầu thủ này vì tài năng, lòng quyết tâm, và sự cứng đầu, ngay cả khi quan hệ của họ rất căng thẳng. Từng có lúc, khi Archibald lập một hat-trick ở League Cup vào lưới Celtic, anh đã mang quả bóng của trận đấu về nhà mình, một việc làm khác thường thời bấy giờ.
- Những cơn giận dữ và máu ăn thua đã tạo lên Alex Ferguson vĩ đại (Phần 3)
- Những cơn giận dữ và máu ăn thua đã tạo nên Alex Ferguson vĩ đại (Phần 2)
- Những cơn giận dữ và máu ăn thua đã tạo nên Alex Ferguson vĩ đại (Phần 1)
Ferguson đã gọi anh lên văn phòng của ông và bắt anh trả lại quả bóng. Cái ghế anh ngồi sau này được các cầu thủ Aberdeen gọi là “Ghế Archibald”. Khoảng 24 tiếng sau đó, khi Ferguson đang uống trà với các cộng sự, Archibald lao qua cửa văn phòng ông và ném quả bóng hết sức vào phòng, khiến nó đập vào tường, làm vỡ tan đống tách chén và ấm trà. “Này thì bóng”, anh hét lên và bỏ ra ngoài.
Mùa Hè đó, Tottenham đưa ra một đề nghị mà cả CLB và cầu thủ không thể từ chối. Khá trùng hợp, khi Ferguson tới London thương lượng vụ chuyển nhượng, ông đã tạt qua xem ĐT Argentina tập ở sân White Hart Lane trước một trận giao hữu với Anh. Ông đã để ý một cầu thủ tập sút bóng như điên loạn. Đó là Diego Maradona. Bấy giờ anh vẫn còn chơi cho Argentinos Juniors, nhưng Osvaldo Ardiles đã nói với Ferguson rằng anh sẽ trở thành cầu thủ vĩ đại nhất thế giới. Viết vào năm 1985, khi mà Maradona đã gia nhập Napoli, Ferguson công nhận là Maradona giỏi, nhưng nhận xét “thật ra chưa thể nói anh ta là cầu thủ vĩ đại nhất - tính khí của anh ta còn quá thất thường”.
Trước khi mùa giải bắt đầu, Aberdeen có chuyến du đấu đầu mùa ở… Đảo Faroe. Chuyến bay của họ hạ cánh lập bập, khiến mọi người nghi ngờ năng lực của viên phi công, và điều đó rõ ràng khi nhiều cầu thủ bắt gặp người lái máy bay chở họ uống như hũ chìm vào buổi tối ngay trước khi cả đoàn trở về Scotland. Bản thân chuyến đi cho thấy năng lực tài chính nghèo nàn của CLB: Faroe là một quần đảo nằm ngay phía bắc Scotland và thật ra không có một đội bóng đúng nghĩa. “Chúng tôi chắc chắn đã mất chức vô địch nếu chuyến đi này là một phần thưởng cho việc giành được danh hiệu”, một cầu thủ đùa.
Nhưng về phần ông, Ferguson rất háo hức, nhất là sau khi đã đăng quang và bịt miệng mọi chỉ trích. Các cầu thủ thích ông và bầu không khí gia đình đã được thiết lập. Ông cũng thuê một trợ lý tên là Archie Knox, người ông sẽ đi cùng xe tới sân tập trong khi nghe băng ghi âm các bài giảng của Bill Shankly. Họ sẽ hình thành một mối quan hệ lâu bền, dù Knox than phiền ông không có việc gì để làm, do Ferguson kiểm soát mọi thứ. Một cách miễn cưỡng, Ferguson để Knox đảm nhận các buổi tập trong khi ông quan sát, và ông nhận ra mình có thể hiểu được đội bóng tốt hơn bằng cách đó. Đấy là một bài học sẽ theo ông tới những ngày cuối cùng của sự nghiệp HLV.
Như mọi khi, Ferguson đầu tư mạnh tay vào lĩnh vực đào tạo trẻ. Ông chiêu mộ những tuyển trạch viên mới, xây dựng các mạng lưới liên lạc địa phương và nghĩ ra nhiều cách sáng tạo để có những cầu thủ triển vọng trước Celtic và Rangers. Một nhân vật then chốt là tay tuyển trạch viên dày dạn Bobby Calder. Trong bộ vét và chiếc mũ mềm, ông sẽ đi khắp Glasgow săn lùng các ngôi sao trẻ và thuyết phục họ. Một thách thức là làm sao để cha mẹ để đứa trẻ gia nhập một đội bóng cách thành phố gần 250 km về phía bắc. Calder xuất hiện ở cửa nhà với sô-cô-la và hoa cho các bà mẹ và xì-gà cho các ông bố. “Đến với Aberdeen cũng là đến với ĐT Scotland”, ông quảng cáo.
Khi những cầu thủ trẻ tới Aberdeen, Grant viết, Ferguson đưa họ tới những căn nhà nhận nuôi và theo dõi kỹ cả sự trưởng thành chuyên môn lẫn cách cư xử. Ở những trận của đội trẻ, ông tìm hiểu các bậc phụ huynh để biết xuất thân từng cầu thủ, tính cách, và tình trạng thể lực của họ. Ferguson sau này nói ngay khi một cầu thủ trẻ bước vào văn phòng của ông, ông có thể đánh giá người đó khá chính xác chỉ qua ngôn ngữ cơ thể. “Tôi có thể phát hiện một người chiến thắng cách một dặm”, ông tự hào.
Cách làm tỉ mỉ nhanh chóng mang lại kết quả: Jim Leighton, John Hewitt, Neale Cooper, Alex McLeish tạo thành một đội Aberdeen nhiều ngôi sao. Nhưng mùa giải thứ ba tỏ ra đáng thất vọng. Vào mùa Đông, những chấn thương nghiêm trọng cản trở phong độ của họ, họ cũng thua Liverpool của Shankly 0-4 trong một trận đấu rất được chờ đợi ở Cúp C1 tại Anfield. Aberdeen khó nhọc về đích ở hạng nhì, kém Celtic 7 điểm, và bị loại khỏi các giải cúp dưới tay Morton và Dundee.
Ferguson từ đó trở đi sẽ không bao giờ chấp nhận 2 mùa giải liên tiếp trắng tay. Dù Aberdeen thua 2 trận đầu tiên, rõ ràng là ông đã đưa vào đội bóng một lối chơi quyết liệt, gần như là dữ tợn. Một đội đã nhận ra điều đó là Ipswich của Sir Bobby Robson, trong trận vòng 1 Cúp C3. Lúc đó Ipswich là một trong những đội mạnh nhất ở Anh và họ không lo lắng nhiều về kết quả bốc thăm. Nhưng Aberdeen gây bất ngờ với trận hòa 1-1 trên sân khách, rồi thắng 3-1 trên sân nhà. “Họ rất khó chơi”, Terry Butcher nói với Grant. “Những gã khốn đó đá rất rắn”.
Vòng 2, Aberdeen hạ Argeș Pitești 3-0 trên sân nhà, nhưng chơi rất tệ ở Romania và bị dẫn 2-0 sau hiệp 1. Strachan đặc biệt không chịu nghe các chỉ đạo, và Ferguson đã mắng tiền đạo này té tát trong phòng thay đồ. Strachan đã phạm sai lầm chết người là cãi lại những lời đó, khiến Ferguson đập tay vào một chiếc bình trong phòng “suýt nữa thì làm ông gẫy tay”. Trong cơn cuồng nộ, ông chụp một khay tách trà và ném về phía Strachan, mấy món đồ gốm rơi lả tả trên bức tường sau lưng ông. Trong hiệp 2, Aberdeen gỡ 2-2 và thắng 5-2 chung cuộc.
Ở giải VĐQG, Aberdeen đá chật vật từ tháng 11 tới tháng 1, tới khi họ gặp Celtic ở Cúp QG Scotland vào tháng 2. Trận đấu diễn ra ở Pittodrie, nhưng Ferguson, hoang tưởng đòi hỏi chiến thắng, đã lệnh cho các cầu thủ rời thành phố vì ông cảm thấy McNeill “biết quá nhiều người ở vùng Aberdeen này”. Ông biết điều gì đang chờ đợi đội bóng của mình. Những trận đấu với Celtic đều đã biến thành chiến tranh từ khi ông tới đây. Khi Celtic gặp Rangers, ít ra còn có sự tôn trọng lẫn nhau. Aberdeen đơn giản là một nơi tàn bạo đến cùng cực. Phần lớn thái độ đó xuất phát từ Ferguson, người muốn các cầu thủ rũ bỏ hoàn toàn thái độ rụt rè của vùng đông bắc. Ông kích thích các cầu thủ bằng cách lặp đi lặp lại mọi người đều chống lại họ ra sao - trọng tài, đối thủ, báo chí - và họ tin ông. Nếu có người đá xấu họ, họ sẽ đá xấu lại.
Aberdeen hạ Celtic 1-0, khởi đầu cho chuỗi 16 trận thắng trong 18 trận ở giải VĐQG. Như thế không đủ để vô địch, nhưng họ vẫn còn trận chung kết Cúp QG Scotland với Rangers. Cả đội này nữa cũng đã trở nên căm ghét Aberdeen, và các trận đấu thường xuyên diễn ra trong ẩu đả, những pha vào bóng kinh hoàng và những chiếc thẻ đỏ. Rốt cuộc, Aberdeen thắng 4-1 sau hiệp phụ. Kết trận, nhà báo của BBC Archie Macpherson nhận xét rằng Ferguson đã “mang những trận đánh nhau trên đường phố Glasgow” tới Aberdeen. “Tôi nhớ là chúng tôi luôn sẵn sàng, tổ chức tốt, và có động lực, nhưng không chỉ thế”, Strachan nói với Grant. “Đó là một đội bóng có thể chơi bất cứ trận nào, ở bất cứ đâu, bất kỳ khi nào. Chúng tôi như một chiếc Ranger Rover, có thể xử lý bất cứ chuyện gì”.
Vào mùa Hè năm 1982, Ferguson kết hợp kỳ nghỉ gia đình của ông với việc xem World Cup ở TBN. Ông cũng tới khách sạn của ĐT Scotland, nơi ông thấy Archibald ở gần hồ bơi đang gọi một chiếc hamburger và một chai Dom Perignon. “Anh ta đáng phải quay lại Ghế Archibald vì trộn lẫn hai thứ đó”, Ferguson sau này viết. Mùa giải đó là một trải nghiệm cay đắng với Aberdeen. Họ về đích kém Dundee United một điểm. Nhưng ở giải cúp thì sự phấn khích rất lớn, khi họ tranh tài ở Cúp C2, với các đối thủ bao gồm Real Madrid, Barcelona, Bayern Munich và Inter Milan. Ít người nghĩ họ có thể vô địch. Aberdeen đánh bại Sion, Dinamo Tirana và Lech Poznán để giành quyền vào chơi trận tứ kết gặp Bayern.
Gã khổng lồ Bavaria có những ngôi sao như Paul Breitner và Karl-Heinz Rummenigge, nhưng Aberdeen đã có kinh nghiệm ở châu Âu. Họ kiếm được trận hòa 0-0 tại Bavaria, một trong những màn trình diễn hay nhất của hàng thủ dưới thời Ferguson. Theo Barclay, thủ thành Jean-Marie Pfaff nói Bayern biết họ sẽ phải chơi với một đội đá phòng ngự tiêu cực ngay từ trước khi trận đấu bắt đầu. Dẫu vậy, trở lại Pittodrie, có vẻ như Aberdeen vẫn sẽ bị loại khi bị dẫn 2-1 vào lúc trận đấu còn lại có 15 phút. Có lúc, Strachan và John McMaster thậm chí còn cãi nhau xem ai sẽ thực hiện một quả đá phạt bên ngoài vòng cấm. Strachan chuẩn bị đá, nhưng rồi chạy qua quả bóng và dừng lại. Mọi chuyện tưởng như một trò đùa với các cầu thủ Bayern đang kèm người trong vòng cấm, nhưng bỗng nhiên Strachan quay lại và tạt bóng vào khu cấm địa cho McLeish đánh đầu ghi bàn. Toàn bộ đã là một màn kịch. Một phút sau, Hewitt ấn định tỉ số 3-2, hoàn tất cuộc lội ngược dòng ngoạn mục.
Buổi tối hôm đó khiến Aberdeen tin rằng họ có thể vô địch. Trong trận bán kết, chiến thắng chung cuộc 5-2 trước Waterschei mở ra trận chung kết gặp Madrid. Đội bóng hoàng gia chỉ về hạng 3 ở La Liga năm trước, nhưng rõ ràng ở đẳng cấp hoàn toàn khác so với Aberdeen. Tuy nhiên khi Ferguson bay sang TBN tìm hiểu đối thủ, ông không thấy ấn tượng. Ông nói với Knox: “Đừng nói ai, nhưng chúng ta có cơ hội lớn đấy!”
Bầu không khí náo nức trước trận đấu lớn tràn ngập thành phố Aberdeen. Cuộc đọ sức sẽ diễn ra ở Gothenburg, và hơn 12.000 CĐV đã lên máy bay tới đó. Thêm 500 người nữa đi bằng đường biển. Những người khác đơn giản là nhảy lên xe máy và bỏ làm. Theo Grant, cửa hàng miễn thuế ở sân bay Aberdeen đã bán được lượng rượu trong 3 ngày bằng với doanh số một tháng!
Ferguson đã chuẩn bị rất tỉ mỉ. Ông đặt một khách sạn ven sông bên ngoài thành phố, và chỉ đạo cho cả vợ các cầu thủ phải làm gì. Ông cũng nhận lời khuyên từ Stein, người đề nghị ông tặng cho HLV Madrid Alfredo Di Stéfano một chai whisky Scotland trước trận, để tạo ấn tượng là Aberdeen bị ngợp. Tối trước trận chung kết, các cầu thủ tổ chức một tối chơi đố vui để giảm bớt áp lực tâm lý về trận đấu. Cuộc chơi thú vị tới mức tới tận sáng hôm sau, họ vẫn còn tranh luận về câu trả lời. Ban huấn luyện nhớ đã cấm Ferguson tham gia cuộc thi vì đội nào có ông sẽ quá mạnh.
Vào ngày diễn ra trận chung kết, mưa liên tục làm ngập sân. Điều đó chẳng khiến Aberdeen phiền lòng, họ ở trong tình trạng thể lực tốt nhất, và đã vượt lên dẫn trước nhờ Eric Black. Nhưng vài phút sau, một pha chuyền về của McLeish mắt lại ở một vũng nước trên sân dẫn tới tình huống Madrid được hưởng phạt đền và Juanito đã thực hiện thành công. Khi hiệp phụ tới, Ferguson đã tung Hewitt vào sân. Anh lạnh tới mức phải mặc hai áo đấu. Gần như ngay lập tức, Ferguson la hét nói anh lùi lại quá sâu và quay sang Knox: “Phải thay anh ta ra thôi”. Đúng lúc đó, McGhee chạy lên bên cánh trái và tạt vào cho Hewitt, người đã đánh đầu ghi bàn ấn định chiến thắng.
Đó là một chiến tích ấn tượng. Một đội bóng với tầm vóc và lịch sử như Aberdeen sẽ không bao giờ có thể giành một danh hiệu như thế, chứ đừng nói là đánh bại Bayern và Madrid. Khi hồi còi chung cuộc vang lên, Ferguson lao vào sân, trượt chân và ngã vào một vũng nước, trong khi BHL chạy ùa tới chỗ ông. Tiệc ăn mừng kéo dài tới 6 giờ sáng hôm sau. Trở lại Aberdeen, các cầu thủ đã có cuộc diễu hành chiến thắng qua hàng trăm nghìn CĐV, một cảnh tượng chưa từng thấy trong thành phố.
10 ngày sau đó, Aberdeen gặp Rangers ở chung kết Cúp QG Scotland. Kiệt sức, nhưng họ vẫn giành chiến thắng 1-0 và Ferguson có mọi lý do để hài lòng, nhưng ông vẫn tỏ ra khắc nghiệt thái quá. Ông nói các cầu thủ đã “chơi một trận đáng hổ thẹn” và vẫn lớn tiếng với phòng thay đồ. Những cầu thủ thấy khó chịu: họ vừa giành 2 chiếc cúp lớn. Màn ăn mừng sau đó khá nhạt nhẽo. Ferguson sau này thừa nhận ông đã cư xử quá lố và xin lỗi. Một số cầu thủ Aberdeen chấp nhận, nhưng những người khác không bao giờ tha thứ cho ông.
Trần Trọng
Dịch từ Times on the ball