Nhà thơ Tân Linh: 7 nhịp cầu Hiền Lương và 754 câu thơ
1. Tân Linh là nhà thơ quê Vĩnh Linh, Quảng Trị. Quê của bảy nhịp Hiền Lương. Quê của nỗi đau chia cắt. Đó là những tiền đề cho thơ ca khởi phát. Có lẽ vì sinh ở miền quê quá đỗi đặc biệt ấy, mà Tân Linh, vốn là một nhà báo, đã mê mải với thơ, mê mải làm thơ. Và “Hiền Lương bảy nhịp” là bản trường ca, có thể là đầu tiên của anh, viết dài hơi về cầu Hiền Lương, về nỗi đau 21 năm cắt chia đất nước.
Mỗi người Việt khi nhắc tới tên Hiền Lương, đều cảm thấy cái tên này đã quen với mình từ lâu lắm. Nhất là người quê ở miền Bắc. Chính một thời âm nhạc và văn học “Đấu tranh thống nhất” từ một nửa đất nước đã nổi lên những ca khúc của Hoàng Hiệp: Câu hò trên bến Hiền Lương (lời Đằng Giao), của Vĩnh Cát: Tâm tình sông Bến Hải…
Có nhiều bài thơ về cầu Hiền Lương và sông Bến Hải của Tế Hanh, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông… rồi bút ký của Nguyễn Tuân cũng được viết ra trong thời kỳ ấy, tất cả đã là những tác phẩm nổi tiếng, những tác phẩm “đi cùng năm tháng” từ hơn nửa thế kỷ trước.
Bây giờ, có thêm trường ca Hiền Lương bảy nhịp của Tân Linh.
2. Bản trường ca cứ dẫn dắt người đọc đi từ nỗi đau này tới niềm yêu khác, từ mất mát tới khát khao, từ chia lìa tới đoàn tụ…
“Sông chia hai nửa
Sông chỉ một bờ
Con cá con tôm nào có chia lìa
Dòng nước hiền hòa bỗng dưng thành lưỡi dao oan nghiệt
Cắt đôi khúc ruột”
21 năm đâu phải là khoảng thời gian ngắn ngủi. Biết bao cuộc đời đã kết thúc ở hai bên cầu Hiền Lương, hai bên bờ Hiền Lương. Những mái đầu trắng khăn tang và những mái đầu bạc vì đợi chờ khắc khoải.
“Ngỡ đò ngang
Ai ngờ sông chảy dọc
Thuyền xuôi
Tôi oán dòng sông
Tôi ghét hàng cọc gỗ
Cắm xuống sông Hiền chia đôi dòng nước
Ngăn đôi con sông
Tôi thương những cánh buồm nâu đơn chiếc
Lặng lẽ nương theo dòng”
3. Người ta nói, sao ở Việt Nam nhiều thơ thế? Nhưng khi đã có những Hiền Lương, những chia cắt, bao số phận trở nên bi thảm, bao tuổi trẻ và cả tuổi thơ phải chịu những mất mát, thì bao nhiêu thơ cho đủ để nói lên tất cả những nỗi đau này? Tôi còn nhớ, cảm xúc của tôi, một đứa trẻ mới 12, 13 tuổi khi nghe những ca khúc, những bài thơ “đấu tranh thống nhất” được trình diễn trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Đó là cái gì cứ cuộn lên, dâng tràn lên trong lòng. Xúc động thật sự. Dù lúc ấy tôi chưa đủ tuổi để cảm nhận hết về nỗi đau chia cắt.
Cái được lớn nhất của trường ca này, là tác giả được thanh thỏa với lòng mình. Chúng ta yêu đất nước, nhiều khi đến vò xé tâm can, nhưng đâu phải lúc nào cũng có thể nói ra. Nhất là nói ra một cách dễ dãi, nhẹ hều. Với Hiền Lương, thì sức nặng của ký ức có khi là quá lớn với một người đã từng sinh ra và lớn lên, dù chỉ ở khoảng đầu đời, ở đó.
“Có lẽ không đâu trên quả đất này
Nỗi chờ đợi dài hơn quãng đời hạnh phúc
Cuộc chờ đợi nhau 21 năm
Có người vợ ngóng chồng qua hai hàng nước mắt
Chờ lúc tóc xanh thành đầu bạc
Em chờ anh không nghĩ đến thời gian
Không sợ hoa tàn
Bao nhiêu mùa trái chín
Không người ươm cây
Bao mùa màng khát bỏng
Mong mưa gieo ruộng cày
Hai mươi mốt năm sông vẫn thế
Chỉ tội lòng người không thể…”
Nghẹn ngào là những đoạn thơ như vậy trong trường ca. Một trường ca đầy cảm xúc, nó không cho ta sự bình thản khi đọc, nếu ta là người Việt Nam. Tôi có thể viết nhiều hơn, nhưng tôi muốn dừng lại ở đây, để người đọc tự tiếp xúc với văn bản. 60 năm của số phận một cây cầu. Cũng là 60 năm trong số phận thăng trầm của đất nước chúng ta.
Thanh Thảo
Thể thao & Văn hóa