Triển vọng ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm phải đóng góp đạt 80 triệu đô la Mỹ
(Thethaovanhoa.vn) - Khi điều kiện sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu về các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng ngày càng lớn, bên cạnh việc hướng tới các sản phẩm có công năng tốt, mỗi người còn hướng tới vẻ đẹp, yếu tố văn hóa và giá trị thẩm mỹ. Điều này mở ra triển vọng cho mỹ thuật ứng dụng phát triển.
Mỹ thuật ứng dụng trong đời sống xã hội
Sản phẩm của mỹ thuật ứng dụng có mặt ở quanh ta. Đó có thể là những đồ dùng hàng ngày như bàn, ghế, giường, tủ, trang sức, quần áo, đèn, bình gốm sứ…, là những sáng tạo để ứng dụng vào cuộc sống thường nhật.
Có thể thấy, hiện nay, mỹ thuật ứng dụng đã thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống. Hầu hết sản phẩm tiêu dùng đều có yếu tố thiết kế mỹ thuật, từ các thiết kế đồ họa, thiết kế mỹ thuật đa phương tiện, thiết kế trang trí nội thất, thiết kế sản phẩm, thiết kế đồ chơi, thiết kế thời trang và phụ kiện; sản phẩm trên các chất liệu như sơn mài, gốm, sứ, mây tre, chạm khắc vàng, bạc, đồng, gỗ, kim loại, vải, tổng hợp...
Theo đánh giá của các chuyên gia mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam đang có sự phát triển nhất định, đã có tính chuyên nghiệp hơn. Điều đó có thể nhận thấy khá rõ qua Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc cuối năm 2019. Nhiều sản phẩm được các nghệ nhân sáng tạo có tính mỹ thuật cao, đã để lại nhiều dấu ấn trong công chúng, như: tác phẩm bộ đèn đan vẩy rồng của Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Văn Tĩnh, làng nghề mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội); bộ bàn ghế mây mây của nghệ nhân Hoàng Văn Hời (Hà Nội)… Nhiều sản phẩm vừa được mang ra trưng bày đã có khách hàng đặt mua. Bộ cửa Trung Hiếu môn của tác giả Trần Nam Tước (Hà Nội) là một ví dụ. Ông Tước cho biết, bộ cửa ông làm cho chính gia đình mình. Tuy nhiên, nhìn thấy bộ cửa này, nhiều người đã liên hệ với ông để đặt hàng, thậm chí có người còn đặt liền 3 bộ. Điều này khẳng định, các tác phẩm sáng tạo có giá trị nghệ thuật mang đậm chất văn hóa dân tộc và có tính ứng dụng trong đời sống sẽ được công chúng đón nhận.
Thừa nhận điều này, nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh, làng mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, Chương Mỹ, Hà Nội) chia sẻ, mấy chục năm làm nghề, ông nhận ra rằng, những mặt hàng thủ công, mỹ nghệ của nước ta được khách hàng thế giới đánh giá cao phần lớn không chỉ là sản phẩm truyền thống, còn là những sản phẩm có sự sáng tạo, chế tác, ứng dụng mỹ thuật, kỹ thuật mới. Ví dụ, với sản phẩm mây tre đan, khách hàng không thích những vật dụng thông thường như chiếc rổ, giỏ…, họ chọn những tác phẩm như đèn, đàn, tranh… được đan bằng kỹ thuật truyền thống, có họa tiết, hình ảnh, hoa văn đặc trưng của Việt Nam.
Nói về sự phát triển của mỹ thuật ứng dụng hiện nay, Họa sỹ Vi Kiến Thành, Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm cho rằng, khi cuộc sống ngày càng có điều kiện hơn, con người ngoài hướng tới các sản phẩm tiêu dùng có công năng tốt, còn hướng tới vẻ đẹp, yếu tố văn hóa và giá trị thẩm mỹ. Việc đảm bảo giữa công năng và giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa đang đặt ra những đòi hỏi cho ngành mỹ thuật ứng dụng cần có nhiều tác phẩm, sản phẩm, mẫu mã đẹp phục vụ đời sống và xuất nhập khẩu.
Tăng cường sự kết nối
Theo đánh giá của nhiều họa sỹ, mỹ thuật ứng dụng đang đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, du lịch, văn hóa của nước ta. Tuy nhiên, mỹ thuật ứng dụng ở nước ta lại chưa được coi trọng đúng mức. Họa sỹ Vi Kiến Thành chia sẻ, các quốc gia phát triển coi mỹ thuật ứng dụng là ngành kinh tế tri thức và chú trọng đầu tư. Tại các trường chuyên nghiệp, trong 10 chỉ tiêu đào tạo, có 8 chỉ tiêu là mỹ thuật ứng dụng và 2 chỉ tiêu là nghệ thuật tạo hình. Ở Việt Nam, họa sỹ thường được chú ý nhiều hơn nhà thiết kế mỹ thuật. Nhiều nghệ sỹ tạo hình tham gia các hoạt động mỹ thuật ứng dụng để nuôi nghề chính là hội họa.
Lý giải vấn đề này, Họa sỹ Trần Khánh Chương, nguyên Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam cho rằng, một bức tranh thường có giá trị cao, tác giả được ghi danh, trong khi một sản phẩm sáng tạo mỹ thuật ứng dụng có thù lao thấp, không mấy ai quan tâm đến tên tác giả. Tuy nhiên, Họa sỹ Trần Khánh Chương cũng cảnh báo, nếu cứ giữ quan điểm như vậy, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng không được dồn nhiều hàm lượng nghệ thuật, ngành này cũng khó bứt phá và trở nên chuyên nghiệp.
Trong "Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2016, mục tiêu đề ra là ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm phải đóng góp đạt 80 triệu đô la Mỹ (đến năm 2020) và 125 triệu đô la Mỹ (đến năm 2030). Để đạt được mục tiêu này, ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, trong đó mỹ thuật ứng dụng là nòng cốt cần có nguồn nhân lực chất lượng cao có tư duy mới mẻ, hiện đại, có khả năng sáng tạo ra các tác phẩm tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Theo thống kê, cả nước hiện có hơn 80 cơ sở có đào tạo các ngành mỹ thuật. Mỗi năm có khoảng 9.000 sinh viên ra trường, trong đó, có nhiều sinh viên thuộc lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực sáng tạo dồi dào này đến nay vẫn chưa được tận dụng triệt để.
Họa sỹ Ngô Anh Cơ, Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Công nghiệp chia sẻ, lâu nay, sinh viên của trường tốt nghiệp khá “đắt hàng”, nhiều người đang trong quá trình học tập đã có doanh nghiệp đến tìm. Tuy nhiên, sự quan tâm ấy của phần lớn doanh nghiệp vẫn chỉ dừng ở mức độ giải pháp tình thế, “lấy ngắn, nuôi dài”, thiếu đầu tư dài hạn. Không ít doanh nghiệp khi đã có sản phẩm mới là quên ngay vai trò của họa sỹ, chỉ quan tâm đến những việc liên quan đến thương mại, thu lời, rất ít doanh nghiệp nghĩ đến việc đầu tư vào sản phẩm tiếp theo.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có liên quan đến mỹ thuật ứng dụng phần lớn sống bằng việc gia công mẫu mã cho nước ngoài hoặc sửa sang mẫu mã nước ngoài để làm hàng xuất khẩu; chưa có ý thức mua các mẫu của họa sỹ mỹ thuật ứng dụng về sản xuất. Đó là những lý do góp phần làm giảm ý chí sáng tạo của nghệ sỹ
Để khắc phục tình trạng này, Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm Vi Kiến Thành cho rằng, mỹ thuật ứng dụng cần có sự liên kết, phối hợp giữa người thiết kế và đơn vị sản xuất; giữa vùng nguyên liệu và nhà sản xuất, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa thị trường trong nước và quốc tế. Chính vì vậy, mỹ thuật ứng dụng đang rất cần sự kết nối, chia sẻ để cùng phát triển, tạo ra những thiết kế sáng tạo, mẫu mã, sản phẩm có giá trị văn hóa – nghệ thuật có tính ứng dụng và trở thành hàng hóa trong tiêu dùng xuất khẩu.
“Tôi cho rằng, khi chúng ta hội nhập sâu rộng với quốc tế , những yếu tố văn hóa trong các sản phẩm càng trở nên quan trọng, những sản phẩm hàng hóa nói chung, đặc biệt là những sản phẩm có yếu tố thẩm mỹ, văn hóa Việt khi ra nước ngoài sẽ trở thành tấm danh thiếp quảng bá cho văn hóa Việt Nam”, ông Vi Kiến Thành nhấn mạnh.
Phương Lan/TTXVN