Tìm 'lối ra' cho nhà ở truyền thống tại vùng cao (kỳ 1): Từ nhà truyền thống sang… nhà gạch
Trong bối cảnh sống hiện nay, nhà ở tại một số vùng dân tộc thiểu tộc có sự chuyển biến từ kiến trúc truyền thống sang hiện đại. Vậy, đâu là giải pháp nhằm bảo tồn, cũng như phát huy giá trị, của loại hình kiến trúc mang đậm nét văn hóa này?
Đó là câu hỏi được đặt ra trong cuộc tọa đàm Văn hóa tộc người từ góc nhìn về nhà ở vừa diễn ra tại trường ĐH Văn hóa Hà Nội cuối tuần qua. Tọa đàm gắn với buổi ra mắt cuốn sách Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam của cố PGS-TS Nguyễn Khắc Tụng (Mai Ha Books và NXB Khoa học xã hội ấn hành).
Vận động và biến đổi
Thực tế, những năm gần đây, cuộc sống của các dân tộc ít người có sự thay đổi lớn. Kéo theo đó, cấu trúc nhà ở cũng có những chuyển biến rõ rệt. Những mái nhà truyền thống giảm dần ở các xã, huyện tập trung đông dân cư là đồng bào dân tộc thiểu số và được thay thế bằng sự hiện diện ngày càng nhiều của những ngôi nhà cấp 4, nhà tầng theo lối nhà ở hiện đại vùng đồng bằng.
Dưới góc nhìn của PGS Bùi Xuân Đính (nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu các dân tộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Viện Dân tộc học), điều này xuất phát từ sự chuyển đổi cơ cấu tổ chức sản xuất kinh tế, trong đó có việc bộ phận lao động trẻ xuống các khu công nghiệp ở đồng bằng làm việc. Từ đó, sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh được tăng cường. Và khi nhận thấy, việc tổ chức sinh hoạt của người Kinh có những ưu điểm nhất định, đồng bào thiểu số đã có những học hỏi, tiếp thu, nhằm cải thiện chất lượng sống.
Một nguyên nhân khác, theo PGS Lâm Bá Nam, Chủ tịch Hội Nhân học và Dân tộc học Việt Nam, đến từ thay đổi về vật liệu xây dựng. Trước đây, một số đồng bào sử dụng vật liệu sẵn có trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa... Còn hiện nay, theo chủ trương giao đất, giao rừng, điều kiện khai thác lâm sản để làm nhà cũng hạn chế. Do vậy, nhiều đồng bào thích ứng với điều kiện mới để sử dụng vật liệu xây dựng hiện đại sẵn có như bê tông, xi măng, gạch…
Đáng nói, dù mục đích bảo tồn văn hóa truyền thống từng được nhắc tới, nhưng việc khuyên nhủ bà con giữ nguyên nhà truyền thống, hoặc xây nhà mới theo kiểu hoàn toàn truyền thống, chưa hẳn đã là tích cực. Như lời PGS Vương Xuân Tình, nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học, việc sinh hoạt trong những ngôi nhà truyền thống cũng tồn tại nhiều bất tiện trong bối cảnh hiện nay.
Chẳng hạn, kiểu nhà trình tường bằng đất, trong hoàn cảnh sống trước đây có thể đảm bảo cho người ta sử dụng trong vài chục năm. Nhưng ở bối cảnh nhiều mưa bão như hiện tại, kiểu nhà này lại dễ bị ngấm nước lở lói, tạo điều kiện cho côn trùng trú ngụ trong tường vách. Hoặc, khi mức sống được nâng cao, nhiều đồng bào cũng có nhu cầu sử dụng điều hòa, quạt máy, hay xây dựng nhà vệ sinh hiện đại. Những kiểu nhà truyền thống khó có thể đáp ứng các nhu cầu này.
Như lời PGS Tình, trong dịp vào Tây Nguyên gần đây, ông gặp một già làng rất tâm huyết trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống. Dù vậy, vị già làng này lại muốn sắp tới xây một ngôi nhà gạch kiên cố và tiện nghi hơn. Bởi, kiến trúc truyền thông ở đây có sàn nhà cao ngang ngực người trưởng thành, bậc cầu thang dẫn lên nhà sàn nhỏ, hẹp nên việc leo xuống vào ban đêm khá khó khăn cho người cao tuổi.
Giữ nhà cũ và xây nhà mới
Để gìn giữ bản sắc truyền thống của tộc người và tính đa dạng văn hóa của địa phương qua hình thái kiến trúc, theo PGS Tình, giải pháp hợp lý là việc vận đồng mỗi cộng đồng cố gắng giữ một vài ngôi nhà truyền thống tại những gia đình có điều kiện. Đặc biệt, nhà sinh hoạt cộng đồng, nơi tụ họp, kết nối những người có cùng đặc điểm văn hóa, cần ưu tiên bảo tồn nguyên vẹn hoặc dựng lại theo kiểu truyền thống nếu không còn. Trong khả năng cho phép, vật liệu truyền thống nên được khuyến khích dùng - còn nếu không, có thể sử dụng các vật liệu mới giả theo hình thức tự nhiên.
Từng khảo sát ở phía Tây các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, PGS Lâm Bá Nam cho biết: Đồng bào người Mường, Thái hiện xây nhà sàn bằng vật liệu mới như bê tông, xi măng, hoặc sử dụng gỗ xoan - loại gỗ có thời gian thu hoạch ngắn, từ 5 đến 8 năm - thay vì sử dụng gỗ khai thác tự nhiên như trước.
Mặc dù có sự thay đổi về kiến trúc nhà ở, vật liệu xây dựng, nhưng theo ông Nam, để dựng nên một ngôi nhà, bên cạnh những vật liệu, còn kèm theo một loạt nghi lễ liên quan đến việc xây nhà dựng cửa mà mỗi tộc người có những cách thức thực hành khác nhau, như chọn hướng đất, xem ngày… Ngoài ra, ngôn ngữ tộc người vẫn được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, một số phong tục chính vẫn được truyền thừa qua các thế hệ dưới một mái nhà. Như thế, vật liệu và kiến trúc xây nhà cũng chỉ là một thành tố trong tổng thể văn hóa, có thay đổi thì cũng không ảnh hưởng sâu sắc tới những đặc tính căn cốt nhất của tộc người.
Song song với việc giữ lại nhà truyền thống làm không gian sinh hoạt chung, PGS Vương Xuân Tình cũng đưa ra đề xuất về việc địa phương cần khai thác các kiến trúc này làm điểm thu hút khách tham quan trải nghiệm, qua đó tạo ra nguồn thu để tự duy trì.
Đa dạng nhà truyền thống
Dựa vào các yếu tố văn hóa truyền thống, điều kiện sinh thái và sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người làm tiêu chí, PGS-TS Nguyễn Khắc Tụng phân chia nhà ở truyền thống thành ba loại hình chính: nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất, nhà đất.
Về cơ bản, các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng thường ở nhà sàn, trong khi các dân tộc Mông, Dao cư trú ở nhà đất. Tuy nhiên, cũng có những nhóm người Nùng sinh sống trong các ngôi nhà đất, hoặc nhóm người Mông, Dao xây nhà nửa sàn nửa đất. Điều này đến từ việc các tộc người có sự học hỏi, tiếp thu qua lại trong quá trình cư trú và giao lưu văn hóa.
(Còn tiếp)