Rằm tháng 7, Lễ Vu Lan, xá tội vong nhân trong tâm thức người Việt
(Thethaovanhoa.vn) - Hàng năm, cứ đến Rằm tháng Bảy âm lịch, người dân cả nước lại sắm sửa những mâm đồ lễ cho ngày lễ Xá tội vong nhân hay còn gọi là cúng cô hồn, "mở cửa địa ngục" và lễ Vu Lan lễ báo hiếu.
Hàng năm, cứ đến Rằm tháng 7 âm lịch, người dân cả nước lại sắm sửa những mâm đồ lễ cho ngày lễ Vu Lan hay còn gọi báo hiếu và lễ Xá tội vong nhân hay còn gọi là cúng cô hồn, "mở cửa địa ngục". Đây là một trong những nét văn hóa truyền thống của người Á Đông.
- Rằm tháng 7, phóng sinh thế nào để phóng sinh không thành phóng tử?
- Rằm tháng 7, Lễ Vu Lan nói chuyện trầm hương xứ Huế
- Rằm tháng 7: Nét văn hóa Việt
Hai lễ đều được cúng vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng xuất phát từ những điển tích riêng biệt. Lễ Vu Lan là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, còn lễ Xá tội vong nhân là để cúng cho nhưng vong hồn không nơi nương tựa, không người thờ cúng.
Truyền thuyết ngày lễ Vu Lan
Lễ Vu Lan mang tính chất là ngày lễ báo hiếu - một trong những lễ vô cùng quan trọng của Phật giáo. Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên nói chung - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ.
Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sinh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này gọi là Vu Lan Bồn Pháp. Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
Ngày Xá tội vong nhân
Theo tín ngưỡng dân gian, lễ Xá tội vong nhân là đến ngày Rằm tháng Bảy, những vong hồn còn lang bạt nơi trần gian chưa về với cõi âm sẽ được bắc cầu cho siêu độ. Cũng có quan điểm cho rằng đây là ngày cõi âm mở cửa địa ngục để các linh hồn được siêu thoát, về cõi trần để tái sinh. Để cho các vong hồn này không quấy nhiều đời sống và có thể siêu thoát thì người ta cúng cháo loãng, gạo, bỏng, muối…
Truyền thuyết khác nói rằng, phật A Nan Đà khi đang ngồi trong tịnh thất thì có một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) hiện lên báo, 3 ngày nữa ông sẽ chết và hóa thành quỷ đói. Cách duy nhất để sống đó là cúng cho bọn quỷ đói thức ăn để được tăng thọ. Ngài còn được Phật truyền cho bài chú "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước.
Những điều chú ý khi cúng Rằm Tháng 7, Lễ Vu lan, xá tội vong nhân
Vào ngày Rằm tháng Bảy, những gia đình có điều kiện đều cúng hai mâm: một mâm cúng tổ tiên tại bàn thờ và một mâm cúng chúng sinh gọi là cúng cô hồn đặt ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào xẩm tối vì lúc này mặt trời đã lặn, cửa âm phủ đã đóng.
Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày một mâm cỗ mặn, tiền vàng và những vật dụng cá nhân dành cho người cõi âm làm bằng giấy (vẫn gọi là đồ hàng mã) những mong người thân đã mất có được một cuộc sống tiện nghi, đầy đủ ở cõi âm giống như người dương thế.
Trên mâm cúng chúng sinh, lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh bằng giấy nhiều màu, các loại bỏng gạo, ngô khoai, bánh kẹo, cháo trắng hoặc cháo hoa, tiền vàng, nước lã hoặc rượu, cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà khắp tứ phía sau khi cúng xong) và còn có thể cài thêm cả chút tiền lẻ.
Ngoài ra, vào ngày này, tại các chùa người ta cũng làm lễ phóng sinh, thả chim, thả cá về với môi trường sống của chúng. Trong ngày lễ Vu Lan, vốn được coi là ngày dành cho mẹ, những người có mẹ còn sống sẽ cài một bông hồng đỏ lên áo và những người mẹ đã mất sẽ đeo một bông hồng trắng, tới chùa cầu kinh để linh hồn mẹ được an lành, siêu thoát.
Lễ Vu Lan trong sử sách
Lễ Vu Lan - Ullumbama (S) - có nghĩa là “cứu đảo huyền, giải thống khổ” (theo Đại tạng kinh tập 16, 779 hạ - Trúc pháp Hộ).
Kinh Vu Lan Bồn (Ullumbama sutra) ghi: Tôn giả Mục Kiền Liên dùng "thiên nhãn" quan sát cõi âm thấy thân mẫu - Thanh Đề đang bị đày, đau ốm gầy còm. Thương mẹ, Tôn giả mang cơm dâng mẹ, nhưng do ác nghiệp thụ báo nên cơm đều biến thành lửa, không sao ăn được, Tôn giả đau xót vô cùng. Vì muốn cứu giúp thân mẫu thoát khỏi nỗi thống khổ đó nên Tôn giả Mục Kiền Liên cầu thỉnh Phật chỉ bầy cho cách cứu độ. Đức Phật dạy rằng: Ngày rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ của chủ tăng. Hãy sắm sửa đủ lễ vật rồi đặt vào trong chậu Vu Lan mang đến cúng, dâng chủ tăng để chuyển nghiệp tham, sân, si ở nơi vong nhân, sẽ cứu được cha mẹ bẩy đời của mình. Tôn giả thành tâm làm theo và cứu được mẹ thoát khỏi âm cung.
Trong Bách Trượng Thanh Quy 7 (chương Nguyệt phân tu tri), tổ Bách Trượng còn nêu rõ: “Ngày rằm tháng Bảy, chư Tăng giải chế vào buổi chiều lập hội Vu Lan Bồn, tụng kinh trì chú cúng thí thực”. Cách thức cúng dàng chư Tăng trong ngày Tự tứ (rằm tháng Bảy) là để cầu siêu độ tận cho tất cả gọi là Pháp hội Vu Lan Bồn. Lễ hội này mang đậm tính báo hiếu.
Ý nghĩa của lễ cúng cô hồn mang đậm tính chất bá thí, bá ân. Trong Phật môn thường gọi lễ cúng này là “Phóng Diệm Khẩu” hay “Thí thực khoa” có thể xem là một phụ đề của lễ Vu Lan Bồn được cử hành trong cùng một ngày. Dân gian còn gọi là “lễ cúng cô hồn” hay “thí thực cô hồn” và triển khai rộng thêm thành “xá tội vong nhân”, tha tội cho những người đã mất.
Vào ngày lễ, người ta lập đàn cầu nguyện cho các oan hồn siêu thoát. Thức ăn cúng dường (lễ vật) chỉ cần gạo, muối và nước uống sạch, tục cúng cháo, tục đốt mã.
Lễ Vu lan tổ chức tại chùa có ý nghĩa về nội dung là "mở cửa ngục" nhằm xá tội vong nhân. Trên bàn cúng vong thường có bày "lục cúng": Hương, nến, hoa quả, oản và nước. Còn có một số bát úp trên bàn, bên trong có đặt tờ giấy ghi chữ "NGỤC"; có kèm theo tờ số ghi rõ tên tuổi, quê quán của vong cùng lễ vật dâng cúng. Nhà chùa quan niệm đây là việc làm nhân nghĩa, vì vậy tổ chức lễ với các nghi thức bao giờ cũng đầy đủ và chu đáo.
Tại nước ta, truyền thống thờ cúng ông bà, tổ tiên đã có từ lâu đời, đến khi Phật giáo du nhập, truyền thống ấy càng phát huy thành đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Kính trọng ông bà, cha mẹ đang hiện hữu và kính trọng ông bà, cha mẹ tổ tiên đã quá cố. Đối với cha mẹ phải hết lòng chăm sóc hiếu dưỡng. Đối với người thân đã khất hồn bất hạnh, người Việt thường tổ chức trai đàn thí thực (Mông Sơn).
Sách Đại Việt Sử ký của Ngô Sĩ Liên còn ghi hai việc đáng quan tâm: Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) đã bãi dịp Trung nguyên yến tiệc chúc tụng của bách quan văn võ đối với mình để làm lễ Vu Lan Bồn cầu siêu cho thân mẫu.
Vua Lý Thần Tông (1128-1138) cũng bỏ yến tiệc của bách quan văn võ vào dịp trung nguyên để thiết lễ Đại trai đàn, cầu siêu cho phụ hoàng là vua Lý Nhân Tông.
Mùa lễ Vu Lan báo hiếu năm 2005, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam có công văn số 235-CV/HĐTS, ngày 1/7/2005 đề nghị lên Thủ tướng Chính phủ về việc làm lễ cầu siêu cho đồng bào và chiến sĩ trận vong tại khắp các tỉnh thành trong cả nước. Đề nghị của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận và từ đó đến nay cứ vào dịp tháng bẩy nhiều địa phương tổ chức lễ cầu siêu (có xuất xứ từ Lễ Vu Lan) để tri ân - báo ân đối với các anh hùng, liệt sĩ và người có công nhân ngày Thương binh-Liệt sĩ 27/7, hoà cùng các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”.
Lễ Vu Lan là dịp gặp gỡ, đối thoại, giao lưu, chia sẻ giữa thế hệ này với thế hệ khác, giữa đời này với đời sau. Ngày này mọi người cùng tôn vinh các giá trị truyền thống cha ông, các giá trị văn hoá tình người trong ý nguyện tất cả là “Đồng bào” là cha, là mẹ, là anh em, là thân bằng quyến thuộc, giữa người còn và kẻ đã khuất, trong ý niệm tâm linh cầu nguyện dựng xây cuộc sống tốt đẹp.
Nhi Thảo