Phúc thẩm vụ Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai: Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị Thanh Nhàn cùng các đồng phạm đang bỏ trốn
Sáng 22/5, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm với các bị cáo có đơn kháng cáo trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, “Đưa hối lộ”, “Nhận hối lộ”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (Công ty AIC) và các đơn vị liên quan.
Đáng chú ý, 8 bị cáo bị truy nã tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa, gồm: Nguyễn Thị Thanh Nhàn (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty AIC), Trần Mạnh Hà (Phó Tổng Giám đốc Công ty AIC), Nguyễn Đăng Thuyết (nguyên Giám đốc Công ty Thành An Hà Nội), Đỗ Mỹ Hạnh (Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cát Vân Sa), Ngô Thế Vinh (Giám đốc Công ty Việt Tiên), Nguyễn Thị Tích (Tổng Giám đốc Công ty Mopha), Nguyễn Thị Sen (nguyên Giám đốc Công ty Thiết bị Y tế và Môi trường), Đỗ Văn Sơn (nguyên Kế toán trưởng Công ty AIC).
Mở đầu phiên tòa, Chủ tọa Mai Anh Tài nêu lên vấn đề thời gian qua có dư luận về việc xét xử vắng mặt bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn và 7 bị cáo đang bỏ trốn, bị truy nã, luật sư kháng cáo thay các bị cáo. Đến phiên phúc thẩm cũng không có mặt 8 bị cáo kháng cáo, hiện việc truy nã chưa có kết quả, do vậy Hội đồng xét xử xin ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung này.
Cho ý kiến về vấn đề này, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội cho biết quan điểm rằng: Liên quan đến 8 bị cáo bị truy nã, đến nay chưa có kết quả, chưa ra trình diện, Viện Kiểm sát thấy Tòa sơ thẩm đã xét xử, đánh giá hành vi, tuyên bản án theo đúng quy định của pháp luật. Sau đó, các bị cáo có quyền kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Để đảm bảo các bị cáo được xét xử đúng luật, khách quan, mặc dù không có mặt phiên tòa để đảm bảo quyền của mình nhưng theo quy định của pháp luật, xét nguyên tắc có lợi cho bị cáo, Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Trước đề nghị trên, Hội đồng xét xử đã tiến hành hội ý. Sau khi hội ý, Hội đồng xét xử cho rằng, từ khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện việc tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với các bị cáo bị truy nã theo đúng thủ tục, đồng thời yêu cầu các bị cáo ra đầu thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật nhưng cho đến phiên tòa sáng 22/5, các bị cáo vẫn vắng mặt.
Do các bị cáo bổ trốn và bị truy nã, việc truy nã không có kết quả, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vắng mặt các bị cáo theo đúng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm được niêm yết công khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy các bị cáo bỏ trốn từ giai đoạn điều tra, bị Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã, đến nay chưa có kết quả, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vắng mặt các bị cáo, thực hiện việc niêm yết bản án (để thực hiện quyền kháng cáo của những người vắng mặt) theo đúng quy định của pháp luật. Theo nhận định của Tòa phúc thẩm, các bị cáo đều không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự (là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất). Sau khi xét xử sơ thẩm, do các bị cáo vắng mặt nên Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm yết công khai bản án tại nơi cư trú của các bị cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hết thời hạn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm không nhận được đơn kháng cáo của các bị cáo vắng mặt.
“Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này, kháng cáo phải do các bị cáo tự thực hiện. Người bào chữa, cũng như thân nhân của các bị cáo không có quyền kháng cáo cho bị cáo”, Chủ tọa Mai Anh Tài phân tích.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng cho biết việc các bị cáo bỏ trốn, bị truy nã, đến nay chưa có kết quả cũng đã thể hiện việc các bị cáo tự từ bỏ quyền của bị can, bị cáo theo quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, trong đó có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm theo quy định trong Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Do đó, Tòa phúc thẩm đủ căn cứ xác định trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, phần quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, căn cứ vào quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm nêu trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa phúc thẩm xét thấy không có căn cứ để chấp nhận việc những người bào chữa có đơn kháng cáo cho các bị cáo nêu trên. Các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đối với các bị cáo nêu trên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Đối với các bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết, Ngô Thế Vinh, Hội đồng xét xử cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm có tiếp nhận lưu trong hồ sơ thể hiện có đơn đề “Đơn kháng cáo”, người gửi Nguyễn Đăng Thuyết, Ngô Thế Vinh, phong bì đựng đơn được gửi từ nước Mỹ.
Tuy nhiên, cấp phúc thẩm xét thấy những đơn này không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (Cục Lãnh sự hoặc cơ quan đại diện ngoại giao...). Mặt khác, đến nay các bị cáo chưa ra trình diện trước pháp luật, không có tài liệu nào chứng minh các bị cáo đã nhập cảnh về Việt Nam, cũng như không có căn cứ chứng minh về nhân thân của các bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định: “Không đủ căn cứ chấp nhận xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết, Ngô Thế Vinh”.
Trước đó, theo bản án sơ thẩm xác định, Nguyễn Thị Thanh Nhàn là chủ mưu trong vụ án này, chỉ đạo nhân viên thuộc các phòng ban khác, móc ngoặc với chủ đầu tư, phân công các công ty “quân xanh” trong quá trình đấu thầu và trúng thầu, gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 152 tỷ đồng.
Theo bản án, dự án Đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai được phê duyệt năm 2007, tổng vốn đầu tư hơn 889 tỷ đồng, bao gồm chi phí xây lắp và thiết bị kèm theo xây lắp.
Để thuận lợi trong việc trúng các gói thầu thiết bị y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn đã chỉ đạo bị cáo Hoàng Thị Thúy Nga (Phó Tổng Giám đốc Công ty AIC) và nhân viên mua Hồ sơ mời thầu, lập Hồ sơ dự thầu cho cả Công ty "quân đỏ" và Công ty "quân xanh" để nộp Hồ sơ dự thầu cho đủ số lượng theo quy định để Công ty AIC trúng 16 gói thầu thiết bị y tế.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Nguyễn Thị Thanh Nhàn ký và chỉ đạo bị cáo Trần Mạnh Hà (Phó Tổng Giám đốc Công ty AIC) ký các Phụ lục hợp đồng điều chỉnh điều khoản phạt hợp đồng trái quy định, gây thiệt hại hơn 3,5 tỷ đồng.
Với cách thức nêu trên của Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Công ty AIC và các Công ty do Công ty AIC chỉ định tham gia 16/19 gói thầu thiết bị y tế và trúng toàn bộ 16 gói thầu với tổng giá trị hơn 665 tỷ đồng. Trong đó: Công ty AIC đứng tên trúng 12 gói thầu, còn lại là các công ty "quân xanh" như: Công ty BMS, TNT... ký hợp đồng thực hiện 4 gói thầu với Chủ đầu tư nhưng thực tế Công ty AIC thực hiện cung ứng toàn bộ thiết bị của các gói thầu này và đã nhận lại toàn bộ số tiền Chủ đầu tư thanh toán cho các Công ty "quân xanh".
Bị cáo Nhàn bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm và xử phạt 16 năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” và 14 năm tù về tội “Đưa hối lộ”. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nhàn phải chấp hành mức án chung cho 2 tội là 30 năm tù.
Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã tuyên phạt phạt Trần Đình Thành (cựu Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai) 11 năm tù; Đinh Quốc Thái (cựu Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai) 9 năm tù cùng về tội “Nhận hối lộ”. Hai cựu lãnh đạo tỉnh Đồng Nai không kháng cáo.
Các bị cáo còn lại bị đưa ra xét xử về các tội danh “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” và bị tuyên phạt những hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội.