72 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7/1947 - 27/7/2019: Chuyện ở đầu đường 19
(Thethaovanhoa.vn) - Chiếc com-măng-ca của Quân đoàn 3 chạy trong đêm, đưa tôi từ Pleiku, theo đường 19, xuống ga Diêu Trì, lúc 1h sáng. Đây là điểm đầu của con đường nổi tiếng này. Không may, tàu hỏa ra Bắc chậm 2 tiếng! Đi cùng tôi là một sĩ quan thuộc Nhà văn hóa Quân đoàn - đại úy Đỗ Tiến Thụy -và đồng chí lái xe.
Thực ra, hai người bạn đường mà tôi vừa kể, nhận lệnh Quân đoàn, hộ tống tôi cùng anh trai tôi, anh Đỗ Trung Cẩn, xuống ga Diêu Trì và chỉ được quay về đơn vị sau khi anh em tôi đã lên tàu ra Bắc.
Vì tàu chậm những 2 tiếng, tức là tới 3h sáng, chúng tôi mới có thể chia tay nhau, chúng tôi chọn một quán bia nhỏ bên ga, dùng một chút cho lại sức và đợi tàu.
- Nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7: Di chứng chiến tranh
- Kỷ niệm 71 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ: Truy điệu, an táng 21 hài cốt liệt sỹ tại Sa Thầy, Kon Tum
Vừa định nâng ly, Đỗ Tiến Thụy kêu lên:
- Không được! Chúng ta không thể chạm ly mà thiếu bác Cẩn.
Rồi không để tôi kịp nói gì, Thụy ra xe, nâng anh tôi bằng hai tay, đưa vào quán, đặt lên chiếc ghế nhựa bên bàn.
- Thế là tròn mâm bốn - Thụy khẽ nói.
Tôi rơi nước mắt. Anh Cẩn của tôi đó. Anh hai của tôi đó. Bây giờ, anh nằm gọn trong một chiếc túi du lịch, sau một lớp ni lông và một lớp vải liệm!
Phải, anh tôi hy sinh ngày 28/3/1971 ở Tây Nguyên, lúc tròn 30 tuổi. Anh nhập ngũ năm 1965 và “Đi B” (đi chiến trường miền Nam) cùng năm. Bây giờ, gần sáng ngày 26/3/1999, tại Diêu Trì, sau 28 năm trời, nhờ Quân đoàn 3 giúp đỡ, tôi mới có thể đưa hài cốt anh trai mình về quê và mới được chạm ly với anh, trong hoàn cảnh ấy!
Thế là cứ mỗi một lần nâng ly, chúng tôi lại cùng chạm vào ly của anh tôi rồi mới tiếp tục. Mắt ai cũng đỏ hoe.
Đến một lúc, không thấy ai rót bia nữa! Gọi, chỉ có cô chủ quán rón rén và run rẩy tới bên bàn. Cô ấy bảo:
- Các em chúng nó nhìn các bác chạm ly mà hãi quá, không đứa nào dám ra nữa! Em cũng thế, nhưng vì các bác gọi mà phải ra vậy! Thật sự là thế nào, các bác ơi!
Khi ấy, tôi đành phải đứng lên và nói rõ hết sự tình rồi có lời:
- Sự thực là như vậy. Nếu nhà hàng sợ quá, chúng tôi xin được rời đi. Còn nếu nhà hàng thông cảm, tôi xin được thắp một nén nhang khấn anh tôi, để anh phù hộ cho nhà hàng ta luôn phát đạt.
Cô chủ quán đáp:
- Chưa biết thì chúng em rất sợ. Giờ biết rồi, không sợ nữa. Các bác cứ ngồi cho đến lúc tàu về.
Y hẹn, tôi châm một nén nhang, theo gót cô chủ quán, cắm lên bát hương cầu lộc của nhà hàng.
Tàu về, tôi chia tay Thụy và đồng chí lái xe, lên tàu cùng hài cốt của anh mình, ra Bắc. Sáng sớm ngày 28/3/1999, tàu về đến ga Hàng Cỏ. Do đã điện trước, vợ tôi đón sẵn ở đó và chúng tôi thuê xe đưa hài cốt anh mình về quê - xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Tây cũ, nay là Hà Nội.
Cũng do điện trước, khi chúng tôi về đến nơi, tại sân vận động xã, các vị lãnh đạo “Quân - Dân - Chính - Đảng” và đông đảo đồng bào Phùng Xá đã chờ sẵn, tiến hành lễ truy điệu và đón anh tôi vào Nghĩa trang Liệt sĩ xã.
Kỳ lạ nhất là khi đồng chí Chủ tịch xã đọc xong điếu văn truy điệu, nói rõ ngày tháng, tôi mới biết, hôm ấy cũng là ngày (Dương lịch) anh tôi hy sinh! Trước đó, theo tập tục cúng giỗ dân gian, trong đầu tôi chỉ nhớ ngày Âm lịch (mùng 3 tháng Ba) thôi. Và rồi bỗng nhiên, toàn bộ hương trên chiếc lư lớn như chiếc vạc, cùng bốc cháy, cháy hết cả chân hương, cháy đến bằng mặt cát! Anh tôi giờ mới thực về chăng?
Nhiều năm trước, cha mẹ tôi không thể chờ anh tôi và đã khuất núi. Bây giờ, chắc dưới suối vàng, cha mẹ tôi đã có thể bớt ngậm ngùi.
*
Sau này, Đỗ Tiến Thụy trở thành một nhà văn quân đội. Nhiều năm nay anh chuyển công tác về Tạp chí Văn nghệ Quân đội ở Hà Nội và vừa nhận quân hàm thượng tá. Tôi cũng đã là một đại tá về hưu nhiều năm. Cứ đến ngày 27/7 hằng năm, tôi lại không thể không nhớ Quân đoàn 3, con đường 19 và ga Diêu Trì được.
Khi bốc mộ anh tôi, tôi có thắp hương, đọc rồi đốt hai bài thơ tôi viết tại Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku trong những ngày chờ được phép di dời hài cốt anh mình. Một bài viết về toàn thể khoảng 3.000 ngôi mộ liệt sĩ ở đó (có 3 ngôi mộ tập thể!) và một bài viết riêng cho anh Cẩn của tôi.
Hai bài thơ ấy có tựa đề: Thơ viết ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai và Thơ bên mộ liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai.
Theo nhật ký của bác sĩ Lê Cao Đài, người mở ra Bệnh viện Tây Nguyên thời chống Mỹ, thì trong tổng số thương bệnh binh nhập viện và không thể cứu nổi ở đây, chỉ có 15% hy sinh trực tiếp vì bom đạn. 85% liệt sĩ còn lại, hy sinh vì rất nhiều lý do khác như là: Sốt rét, đói, tai nạn đường rừng... Trong đó, nhiều nhất là vì sốt rét!
Thơ viết ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai Ngổn ngang mây trắng trên đầu Mây trên ấy còn bay muôn thuở Ba ngàn phận, tình ba ngàn khối Ai ngã lúc mịt mờ lửa đạn Ai đi nhẹ như mây như khói? Ai vượt thác nửa chừng cạn sức? Những ai nghỉ cùng sâu một mộ Những ai kịp thầm thì trăng trối Ai người mười tám, đôi mươi? Ngổn ngang mây trắng trên đầu Đỗ Trung Lai |
Thơ bên mộ liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai Ước gì anh lên đây được Cha mẹ chúng mình đã khuất Giờ vải lụa đâu nhiều quá Sông Đáy trước nhà vẫn thế Mỗi bận về sông thấy cát Anh của em là thế đấy Bây giờ trời cao đã thắng Bây giờ em ngồi bên mộ Thế mà lòng trời thuở ấy Từ nay em không tin nữa Vẫn biết vào cơn gió bụi Nhưng trước nấm mồ ruột thịt Đỗ Trung Lai |
Đỗ Trung Lai